Giới thiệu
Cập nhật lúc Thứ Năm, ngày 19 tháng 12 năm 2024 - 15:10 (GMT+7)
CÔNG ĐOÀN TUYÊN QUANG QUA CÁC THỜI KỲ

                                LỜI GIỚI THIỆU

Tỉnh Tuyên Quang nằm ở phía Bắc của Tổ quốc, là mảnh đất có truyền thống lịch sử, truyền thống cách mạng kiên cường. Đã bao đời nay nhân dân các dân tộc Tuyên Quang giàu lòng yêu nước, cần cù trong lao động sản xuất, anh hùng dũng cảm trong chiến đấu chống ngoại xâm bảo vệ quê hương đất nước. Vì vậy Tuyên Quang là "nơi chôn rau, cắt rốn của ta", "Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà",  được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm Thủ đô của Cách mạng Việt Nam thời kỳ tiền khởi nghĩa và trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp.

Kế thừa và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động Tuyên Quang dưới sự lãnh đạo của Đảng đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách cùng với đồng bào các dân tộc giành nhiều thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong gần một thế kỷ qua cùng với giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn cả nước, đội ngũ công nhân, viên chức và tổ chức Công đoàn Tuyên Quang không ngừng phát huy ý chí cách mạng, tinh thần tự lực tự cường, lao động sáng tạo có nhiều nội dung, hình thức hoạt động phong phú, tập hợp và động viên quần chúng công nhân, lao động thực hiện xuất sắc những nhiệm vụ chính trị, kinh tế mà Đảng đã vạch ra trong từng giai đoạn lịch sử.

Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới và bước đầu Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang đi đầu xây dựng quê hương ngày một phát triển. Là lực lượng nòng cốt của khối liên minh công - nông - trí thức và của khối đại đoàn kết dân tộc, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động xứng đáng là chỗ dựa của Đảng, của đồng bào các dân tộc Tuyên Quang trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tỉnh nhà, theo mục tiêu "Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh".

Trong tiến trình lịch sử, phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã tích luỹ và hun đúc nên nhiều giá trị tinh thần quý báu. Đó là nhân tố quan trọng để đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang ngày một phát triển, đáp ứng yêu cầu cách mạng của dân tộc, của giai cấp trong thời đại mới.

Xuất phát từ ý nghĩa đó, Liên đoàn lao động tỉnh Tuyên Quang đã tổ chức nghiên cứu, biên soạn cuốn sách "Lịch sử phong trào công nhân và công  đoàn Tuyên Quang". Đây là công trình khoa học nhằm thể hiện sự biết ơn sâu sắc những công lao to lớn, sự hy sinh vô bờ bến của các thế hệ cán bộ, đoàn viên công đoàn, của công nhân, viên chức, lao động cho sự nghiệp, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn ngày càng vững mạnh.

Trong quá trình nghiên cứu, biên soạn, cuốn sách đã được sự chỉ đạo giúp đỡ của Ban tuyên giáo tỉnh uỷ, các Ban ngành đoàn thể, đặc biệt là của Trường Đại học Công  đoàn Việt Nam. Là một cuốn lịch sử được tái hiện trong khoảng không gian và thời gian rộng lớn, nguồn tư liệu đã bị thất thoát nhiều, nên trong quá trình nghiên cứu, biên soạn còn có những hạn chế, thiếu sót. Liên đoàn lao động tỉnh Tuyên Quang mong nhận được sự góp ý của các đồng chí cán bộ lão thành, các cán bộ, đoàn viên công đoàn và bạn đọc xa gần để nhóm nghiên cứu, biên soạn tiếp thu, sửa chữa cho lần xuất bản sau được tốt hơn.

Nhân dịp này Ban chấp hành Liên đoàn Lao động tỉnh Tuyên Quang xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ, cộng tác của Ban tuyên giáo tỉnh uỷ, Sở khoa học- công nghệ môi trường, các ban ngành, đoàn thể và các bậc lão thành. Xin cảm ơn sự giúp đỡ của Trường Đại học Công đoàn, Nhà xuất bản Lao động đã tích cực nghiên cứu, biên soạn và tổ chức xuất bản, để cuốn sách kịp thời ra mắt bạn đọc vào dịp Đại hội làn thứ XIV Công đoàn tỉnh Tuyên Quang.

   Khái quát điều kiện tự nhiên – xã hội tỉnh Tuyên Quang

Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía Bắc, nằm giữa Tây Bắc và Đông Bắc của Tổ quốc Việt Nam, có toạ độ địa lý: 21030’ đến 22040’ vĩ độ Bắc và 104053’ đến 105040’ kinh độ Đông, phía Bắc giáp tỉnh Hà Giang, phía Đông giáp tỉnh Bắc Kạn, Cao Bằng và Thái Nguyên, phía Tây giáp tỉnh Yên Bái, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc. Diện tích tự nhiên: 5.860 km2 (586.000 ha), dân số gần 800 nghìn người, thuộc 22 dân tộc, gần 90% dân số ở nông thôn.

Từ thủa các vua Hùng dựng nước, Tuyên Quang đã thuộc cương vực của Nhà nước Văn Lang. Qua các triều đại phong kiến Việt Nam, Tuyên Quang đã nhiều lần thay đổi tên gọi và địa giới hành chính cũng như các đơn vị hành chính trực thuộc.

Theo sử sách, trước năm 1285, dưới thời nhà Trần, địa danh Tuyên Quang đã xuất hiện và tồn tại cho đến ngày nay.

           Vào đầu triều Trần, Tuyên Quang là một châu thuộc lộ Quốc Oai. Muộn nhất đến năm 1321, châu Tuyên Quang được nâng lên thành lộ Tuyên Quang, là đơn vị hành chính trực thuộc triều đình phong kiến. Năm 1397, Tuyên Quang được đặt làm trấn gồm Tuyên Quang, Hà Giang và một phần Yên Bái ngày nay.

Thời thuộc Minh (đầu thế kỷ XV) Tuyên Quang được đổi làm phủ Tuyên Quang; địa giới hành chính bao gồm các huyện đã có từ cuối thời Trần. Dưới triều Lê , năm 1428, Lê Lợi chia cả nước ra thành 5 đạo, trong đó Tuyên Quang thuộc Tây đạo. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) Lê Thánh Tông chia cả nước làm 12 đạo Thừa Tuyên. Tuyên Quang thành đạo Thừa tuyên gồm 1 phủ, 1 huyện và 5 châu (phủ Yên Bình, huyện Phúc Yên, châu Vị Xuyên, châu Thu Vật, châu Lục Yên, châu Đại Man, châu Bảo Lạc). Năm Quang Thuận thứ 10 (1469), Lê Thánh Tông lại cho định bản đồ của 12 Thừa Tuyên đến năm Hồng Đức thứ 21(1490) thì bộ bản đồ này hoàn thành được gọi là Hồng Đức bản đồ. Tuyên Quang chính thức được xác định trong bản đồ hành chính gồm 1 phủ, 1 huyện, và 5 châu: Phủ Yên Bình; Huyện Phúc Yên (gồm huyện Yên Sơn, Hàm Yên, thị xã Tuyên Quang ngày nay); Châu Thu Vật (nay thuộc tỉnh Yên Bái); Châu Lục Yên (nay thuộc tỉnh Yên Bái); Châu Đại Man  (huyện Chiêm Hoá ngày nay); Châu Bình Nguyên  (tỉnh Hà Giang ngày nay); Châu Bảo Lạc ( Tỉnh Cao Bằng, Hà Giang ngày nay); Từ năm 1490, Tuyên Quang đổi thành xứ Tuyên Quang;  Năm 1512, xứ Tuyên Quang đổi thành trấn Minh Quang .

Tiếp đó trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, Tuyên Quang cơ bản vẫn giữ nguyên tên gọi và địa giới hành chính của mình. Từ năm 1802, các vua Gia Long , Minh Mạng đã chủ trương chấn chỉnh lại địa giới các tỉnh. Năm 1831, Vua Minh Mạng chia cả nước thành 31 tỉnh, trong đó có Tuyên Quang với các đơn vị : Phủ Yên Bình; Huyện Hàm Yên ;Châu Vị Xuyên; Châu Đại Man; Châu Lục Yên; Châu Bảo Lạc bao gồm các tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang và một phần tỉnh Yên Bái hiện nay. Tháng 5/1884, thực dân Pháp đánh chiếm Tuyên Quang , từng bước xác lập quyền thống trị thực dân và định lại địa giới của Tuyên Quang . Ngày 18/4/1888 phủ Đoan Hùng (trong đó có huyện Sơn Dương ngày nay) được nhập vào tỉnh Tuyên Quang. Năm 1890, châu Lục Yên tách khỏi tỉnh Tuyên Quang. Đến thời điểm này, địa giới hành chính của Tuyên Quang chỉ còn lại Tuyên Quang, Hà Giang và huyện Yên Bình thuộc tỉnh Yên Bái ngày nay.

        Năm 1891, toàn quyền Đông Dương ra nghị định xoá bỏ tỉnh Tuyên Quang. Năm 1900 toàn quyền Đông Dương lại ra Nghị định thành lập lại tỉnh Tuyên Quang, với địa giới hành chính gồm Phủ Yên Bình, châu Chiêm Hoá và 2 huyện Hàm Yên, Sơn Dương.

Sau Cách mạng Tháng Tám , Tuyên Quang tiếp tục có một số thay đổi về địa giới hành chính gắn liền với từng giai đoạn lịch sử của Cách mạng Việt Nam. Tháng 7/1956, huyện Yên Bình được tách nhập về tỉnh Yên Bái. Năm 1976, Tuyên Quang sát nhập với Hà Giang thành tỉnh Hà – Tuyên, năm 1991, tái lập lại 2 tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang . Tỉnh Tuyên Quang hiện nay có thị xã Tuyên Quang và các huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Hàm Yên, Chiêm Hoá, Na Hang, với 140 xã, phường, thị trấn.

Địa hình Tuyên Quang bị chia cắt lớn bởi hệ thống sông ngòi, đồi núi, thung lũng và cơ bản chia thành các vùng: Khu vực núi cao phía Bắc, gồm  huyện Na Hang và các xã vùng cao của các huyện Chiêm Hoá, Hàm Yên, Yên Sơn, chiếm khoảng trên 50% diện tích tự nhiên, phù hợp với việc khoanh nuôi rừng tự nhiên và trồng rừng, phát triển kinh tế lâm – nông nghiệp. Khu vực núi thấp, gồm các xã phía Nam các huyện Chiêm Hoá, Hàm Yên, Yên Sơn và Sơn Dương, chiếm 40% diện tích tự nhiên của tỉnh. Đồi núi ở đây có độ dốc phổ biến 100 đến 250, thích hợp cho trồng cây công nghiệp dài ngày, cây lương thực và cây ngắn ngày khác. Khu vực đồi và thung lũng dọc sông Lô, sông Phó Đáy gồm thị xã Tuyên Quang và phần còn lại của các huyện Yên Sơn, Sơn Dương chiếm khoảng 10% diện tích tự nhiên của tỉnh. Khu vực này là địa bàn trọng điểm sản xuất công nghiệp, phát triển các trung tâm kinh tế - xã hội lớn của tỉnh.

Khí hậu Tuyên Quang mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của lục địa Bắc Á Trung Hoa, có hai mùa rõ rệt. Mùa đông lạnh, khô hạn và mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều. Lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1.295-2.266 mm. Nhiệt độ trung bình 220-230C và độ ẩm bình quân là 85%.

Tuyên Quang có 3 sông lớn chảy qua : Sông Lô, sông Gâm và sông Phó Đáy. Sông Lô đoạn chảy qua tỉnh dài 145 km là tuyến đường thuỷ nối Tuyên Quang với các tỉnh khác, có khả năng vận tải sà lan, tàu thuyền hàng chục tấn vào mùa khô và hàng trăm tấn vào mùa mưa . Sông Gâm, đoạn chảy qua Tuyên Quang dài 170 km, có khả năng vận tải đường thuỷ, nối các huyện Na Hang, Chiêm Hoá với tỉnh lỵ. Sông Phó Đáy, đoạn chảy qua Tuyên Quang dài 84 km. Ngoài ra, Tuyên Quang còn có các sông nhỏ khác liên kết với nhau theo lưu vực 3 sông chính. Đây là nguồn cung cấp nước phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt và chứa đựng tiềm năng thuỷ điện lớn. Trên sông Gâm, tại huyện Na Hang có nhà máy thuỷ điện đang được xây dựng với công suất 342 MW.

Đất đai Tuyên Quang tương đối tốt, có thể tạo ra vùng chuyên canh chè, mía, lạc cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp. Độ che phủ của rừng năm 2005 đạt 63 %, có hệ thực vật phong phú với 760 loài của 349 chi , 126 họ thuộc 8 ngành thực vật bậc cao . Theo danh mục trong sách đỏ Việt Nam, tỉnh Tuyên Quang có 18 loài gỗ quý hiếm như: Trầm hương, nghiến, lát hoa, tuế đá vôi , hoàng đàn , pơ mu…, rừng gỗ chiếm 2/3 diện tích, trữ lượng hơn 16 triệu m3 gồm các loại như keo, lát, mỡ, bạch đàn, thông, xoan, tếch, bồ đề… Trong đó, cây keo và bồ đề có trữ lượng lớn nhất (từ 550.000 – 650.000 m3 mỗi loại), tiếp đến là mỡ và thông mỗi loại từ 120.000 – 300.000 m3. Bên cạnh đó, có rừng đặc sản là quế, diện tích xấp xỉ 4.000 ha nhưng có giá trị kinh tế cao.

           Tuyên Quang có nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú : Theo sổ mỏ và điểm quặng do Cục Địa chất Việt Nam (Bộ Công nghiệp) biên soạn năm 1994 thì tỉnh Tuyên Quang có 163 điểm mỏ với 27 loại khoáng sản khác nhau được phân bố ở hầu hết các huyện, như quặng sắt, bari, cao lanh, thiếc, mangan, chì, kẽm, angtimoan... Ngoài các loại khoáng sản trên, Tuyên Quang còn có nhiều loại khoáng sản khác như vônfram, pirit, kẽm, chì, đất sét, vàng, cát sỏi,…

Tuyên Quang có 500 di tích lịch sử văn hoá , trong đó có những khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia như Tân Trào,Kim Bình, Kim Quan, Làng Ngòi-Đá Bàn. Là một tỉnh giàu truyền thống cách mạng và mang đậm bản sắc văn hoá các dân tộc, Tuyên Quang là nơi khởi phát, hội tụ và giao thoa của những sắc thái văn hoá riêng của các dân tộc ở miền núi phía Bắc. Các lễ hội, truyền thuyết và những làn điệu dân ca... đã tạo cho Tuyên Quang nhiều điều kiện phát triển du lịch , thu hút du khách thăm quan .Tuyên Quang định hướng 3 sản phẩm du lịch chính là : Du lịch lịch sử - văn hoá ,du lịch sinh thái và du lịch nghỉ dưỡng với 3 khu du lịch chính của tỉnh là : Khu du lịch lịch sử - văn hoá bao gồm các di tích lịch sử cách mạng, văn hoá ở khu Tân Trào-ATK tại các xã Tân Trào, Trung Yên, Minh Thanh, Bình Yên, Hợp Thành, Tú Thịnh (huyện Sơn Dương), Kim Bình (huyện Chiêm Hoá), Kim Quan, Mỹ Bằng (huyện Yên Sơn) và địa bàn thị xã Tuyên Quang; Khu du lịch nghỉ dưỡng bao gồm suối khoáng Mỹ Lâm (huyện yên Sơn) có nguồn nước khoáng nóng. Khu du lịch sinh thái bao gồm huyện Na Hang, Hàm Yên, Chiêm Hoá, thị xã Tuyên Quang.

        Sau nhiều năm xây dựng và phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở của tỉnh đã được đầu tư để ngày một đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Về hệ thống đường giao thông, Tuyên Quang có các đường giao thông quan trọng như Quốc lộ 2 qua địa bàn tỉnh 90 km nối liền Thủ đô Hà Nội, Phú Thọ với Tuyên Quang và Hà Giang; Quốc lộ 37 từ Thái Nguyên qua huyện Sơn Dương, Yên Sơn đi Yên Bái; Quốc lộ 2C từ thị xã Vĩnh Yên lên Sơn Dương và thị xã Tuyên Quang. Toàn tỉnh có 340,6 km đường quốc lộ, 392,6km đường tỉnh, 579,8 đường huyện, 141,71 km đường đô thị. Đến nay, 100% xã, phường, thị trấn, 96,3% thôn, bản có đường ô tô đến trung tâm.Tỉnh đã hoàn thành quy hoạch tổng thể mạng lưới giao thông đến năm 2010 và định hướng phát triển đến năm 2020. Trong đó có những tuyến giao thông, chiến lược đi qua như đường Hồ Chí Minh, quốc lộ 279, đường cao tốc Hải Phòng-Côn Minh, đường sắt Thái Nguyên- Tuyên Quang- Yên Bái, Tuyến đường sông Việt trì- Tuyên Quang- Hạ lưu thuỷ điện Tuyên Quang. Hệ thống giao thông này sẽ thay đổi căn bản địa lý kinh tế của tỉnh, tạo điều kiện thu hút đầu tư và mở rộng giao lưu thương mại .

Về hệ thống điện, ngoài nguồn điện trong nước Tuyên Quang được cung cấp điện mua từ Trung Quốc theo tuyến điện 110 kV từ cửa khẩu Thanh Thuỷ (Hà Giang) đến trạm 110 kV Hà Giang,  qua trạm Bắc Quang , qua đường dây 110 KV Bắc Quang-Hàm Yên cấp điện cho 2 trạm biến áp 110 kV của tỉnh là Tuyên Quang và Chiêm Hoá. Tuyên Quang có 613 trạm biến áp các loại, 1.447,8 km đường dây tải điện từ 6 KV - 35KV. Tính đến hết năm 2005 đã có 100% số xã có điện lưới quốc gia, tỷ lệ số hộ được dùng điện lưới quốc gia đạt 84,5%.

Về thông tin liên lạc, đến nay 100 % xã, phường, thị trấn có điện thoại, đạt 5,8 máy trên 100 dân; 114/140 xã, phường, thị trấn có nhà bưu điện văn hoá xã; 100% số xã có thư báo trong ngày; 100% huyện, thị có trạm thu phát truyền hình, 80% dân số được nghe đài phát thanh; 75% dân số được xem truyền hình. Hệ thống viễn thông đã phủ sóng di động tới các khu, cụm công nghiệp, dịch vụ, khu dân cư và các tuyến quốc lộ.

Toàn tỉnh có 04 trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, gồm trường Cao đẳng Sư phạm, trường Trung học Kinh tế kỹ thuật, trường Trung học Y tế và trường Trung cấp nghề. Hàng năm, các trường có khả năng đào tạo hàng trăm giáo viên, cán bộ y tế và hàng nghìn cán bộ có trình độ trung cấp và công nhân lành nghề.

Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển, từng bước đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân. Đến nay tỉnh có 4 bệnh viện tuyến tỉnh, 7 bệnh viện tuyến huyện, 107 trạm y tế xã, phường, thị trấn đạt chuẩn Quốc gia về y tế xã, 100% các xã có trạm y tế hoặc phòng khám đa khoa; 105 trạm y tế xã, phường, thị trấn có bác sỹ, tổng số giường bệnh khoảng 2.000 giường.

Nguồn lao động của Tuyên Quang 51,8% trình độ văn hoá trung học cơ sở và trung học phổ thông, đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ năm 2005, có 10.096 người trình độ Đại học, 80 thạc sỹ, 4 tiến sỹ  (cơ cấu của các ngành: giáo dục - đào tạo có 6.188 giáo viên trình độ đại học, cao đẳng, 60 giáo viên trình độ thạc sỹ, 4 giáo viên trình độ tiến sỹ ; chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân có 249 bác sỹ, dược sỹ trình độ đại học, 120 bác sỹ chuyên khoa cấp I, cấp II và 5 thạc sỹ ; văn hoá-thông tin-thể thao có 161 người  trình độ đại học, cao đẳng và 3 thạc sỹ ; lĩnh vực kinh tế có 1.130 người có trình độ đại học, cao đẳng và 2 thạc sỹ...). Năm 2001, tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Năm 2003 đã xoá thôn, bản trắng về giáo dục mầm non và đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, tỉnh thường xuyên đầu tư đào tạo, đào tạo lại nghề và dạy nghề cho người lao động.

Về phát triển kinh tế xã hội, những năm gần đây tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân hàng năm trên 11 %. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông lâm nghiệp. Năm 2005, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng 30,7%, tỷ trọng dịch vụ 33,6% , tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 35,7%.

 Kinh tế đã chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá. Bước đầu hình thành các khu công nghiệp, du lịch, dịch vụ. Hệ thống kết cấu hạ tầng về giao thông, trường học, lưới điện, bưu chính viễn thông... được đầu tư xây dựng và nâng cấp.

          Tỉnh đã hoàn thành phê duyệt quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Tuyên Quang đến năm 2020: gồm quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp, quy hoạch tổng thể du lịch, quy hoạch tổng thể mạng lưới giao thông, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch tổng thể cụm các khu công nghiệp-dịch vụ-đô thị Long Bình An; quy hoạch phát triển điện lực; quy hoạch phát triển lâm nghiệp, quy hoạch phân 3 loại rừng, quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản, quy hoạch chung và điều chỉnh mở rộng quy hoạch thị xã Tuyên Quang.

Về định hướng phát triển kinh tế – xã hội, tỉnh xác định: Đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, phấn đấu đạt tốc độ GDP bình quân hàng năm trên 14%. Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu ngành kinh tế đến năm 2010: Công nghiệp, xây dựng 40%; Các ngành dịch vụ 35%; Nông lâm nghiệp 25%. Phát triển nhanh các ngành dịch vụ, nhất là du lịch, đồng thời phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá.

 Đối với nông nghiệp, nông thôn, phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm gắn với chuyển dịch cơ cấu cây trồng có giá trị kinh tế cao. Đổi mới công nghệ chế biến nâng cao chất lượng sản phẩm trong nông nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Cải cách thủ tục hành chính, sửa đổi và hoàn thiện các chính sách đầu tư, tạo môi trường thông thoáng để thu hút các nguồn đầu tư, phát triển kinh tế.

          Năm ở vị trí chiến lược, Tuyên Quang có truyền thống lịch sử, truyền thống cách mạng, có nhiều đóng góp quan trong trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giành và giữ độc lập dân tộc. Năm 1075, quân dân Tuyên Quang đã tham gia đạo quân của Lý Thường Kiệt tiến vào Ung Châu, phá tan bước đầu âm mưu xâm lược nước ta của triều đình phong kiến nhà Tống. Năm 1285, quân dân Tuyên Quang tham gia đạo quân dó Trần Nhật Duật chỉ huy đánh quân Nguyên - Mông từ Vân Nam xuống xâm lược nước ta. Năm 1789, nhân dân trong tỉnh lại hoà cùng nghĩa quân Tây Sơn đánh bại quân xâm lược Mãn Thanh. Cuối thế kỷ XIX, nhân dân các dân tộc Tuyên Quang cùng nhân dân cả nước nổi dậy chống thực dân Pháp xâm lược. Khi quân Pháp tiến đánh Tuyên Quang, nhân dân đã làm “vườn không, nhà trống”, đánh giặc bằng mọi vũ khí trong tay, vây địch trong thành, phục kích địch tại Hoà Mục (xã Thái Long, huyện Yên Sơn), tiêu diệt 100 tên, làm bị thương gần 80 tên. Với thiệt hại này thực dân Pháp phải thừa nhận, đây là một trong những trận thua lớn của chúng ở Bắc Kỳ. Từ năm 1885 đến 1898, nhân dân các dân tộc trong tỉnh tích cực tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp; tiếp đó tham gia vào khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám, khởi nghĩa của Triệu Tiến Kiên và Triệu Tài Lộc…

Trong cách mạng Tháng Tám , Tuyên Quang vinh dự là Thủ đô Khu giải phóng, được Trung ương Đảng và Bác Hồ chọn làm trung tâm của cách mạng cả nước. Tại Tân Trào - Sơn Dương đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử gắn liền với vận mệnh dân tộc : Hội nghị toàn quốc của Đảng quyết định phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền và cử ra Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc; Quốc dân Đại hội họp tại đình Tân Trào thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch .

Trong những năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Tuyên Quang là Thủ đô Kháng chiến, nơi đồng bào cả nước "trông về Việt bắc mà nuôi chí bền". Nhân dân các dân tộc Tuyên Quang đã luôn luôn làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng: Xây dựng, bảo vệ An toàn khu (ATK); bảo vệ Bác Hồ, Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận; bảo vệ các cơ quan đầu não của Cách mạng Lào. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang đã lập nhiều chiến công vang dội trên chiến trường, đập tan các cuộc tấn công lên Việt Bắc của giặc Pháp. Bình Ca, Cầu Cả, Khe Lau... là những địa danh lịch sử làm rạng rỡ tinh thần chiến đấu của quân, dân Tuyên Quang trong chiến dịch Việt Bắc (Thu – Đông 1947) .

   Tại Tuyên Quang đã chứng kiến nhiều hội nghị quan trọng của Trung ương Đảng, Chính phủ được mặt trận và các đoàn thế triệu tập. Đặc biệt, Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ II (tại Vinh Quang-Kim Bình, Chiêm Hoá từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 2 năm 1951), là Đại hội đầu tiên của Đảng được tổ chức ở trong nước. Đại hội đã bổ sung, hoàn chỉnh đường lối kháng chiến, kiến quốc đưa cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta đến thắng lợi.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang tiếp tục xây dựng hậu phương vững mạnh, làm tròn nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Truyền thống yêu nước, đoàn kết, cách mạng, tinh thần đấu tranh anh dũng của lớp lớp cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang đã để lại những bài học quý giá, những tấm gương sáng ngời cho các thế hệ mai sau học tập, noi theo.

 Ngày nay trong công cuộc đổi mới, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của quê hương cách mạng, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra, phấn đấu đưa Tuyên Quang trở thành một tỉnh phát triển toàn diện, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

 

              Chương I : Phong trào công nhân, công đoàn

     Tuyên Quang từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất

    đến khi Cách mạng tháng Tám thành công (1897-1945)

 

I . Phong trào công nhân, lao động từ đầu thế kỷ XX đến khi tổ chức Đảng ở Tuyên Quang  ra đời (1900-1937).

1. Sự ra đời và những cuộc đấu tranh đầu tiên của đội ngũ công nhân-lao động Tuyên Quang (1900-1930):

     Từ tháng 9/1858 thực dân Pháp tiến hành lược Việt Nam, Lào và Campuchia nhằm biến Đông Dương thành thuộc địa đế quốc Pháp. Bằng việc ký hiệp ước Pa-tơ-nốt (Patenotre), triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã thừa nhận sự bảo hộ của thực dân Pháp đối với Việt Nam. Tuy nhiên, mãi đến năm 1887, thực dân Pháp mới bình định xong các tỉnh miền núi Bắc Bộ, nhất là các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lai Châu….Điều đó khẳng định sự kháng cự của những lực lượng yêu nước thuộc các dân tộc ít người ở vùng núi phía Bắc là rất kiên cường, anh dũng và kéo dài nhiều năm gây ra nhiều thiệt hại cho thực dân Pháp.

           Năm 1897 toàn quyền Đông Dương Pôn-Đu-Me đã soạn thảo kế hoạch khai thác thuộc địa với mục tiêu:

  • Khai thác vơ vét tài nguyên (các loại khoáng sản, nông sản ) giàu có, đa dạng phong phú ở Việt Nam .
  • Bóc lột nguồn nhân lực rẻ mạt ở Việt Nam .
  • Biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ hàng hoá, nơi đầu tư của tư bản Pháp.
  • Tăng cường và mở rộng thế lực Chính trị, quân sự của đế quốc Pháp ở khu vực Viễn Đông.

         Trong kế hoạch khai thác thuộc địa, thực dân Pháp rất chú ý khu vực Bắc Kỳ, nơi có nhiều hầm mỏ, nhiều loại khoáng sản dễ khai thác như than, sắt, chì, đồng, kẽm, vàng, bạc …Bắc Kỳ cũng là nơi tập trung đông dân cư , nguồn lao động dồi dào, đất đai màu mỡ. Thực dân Pháp chú trọng mở mang đồn điền, trồng cây công nghiệp như chè, cà phê…, đầu tư ít vốn nhưng thu lợi nhuận cao và bóc lột được nhiều sức lao động. Từ năm 1888, toàn quyền Đông Dương đã ra nghị định cho bọn thực dân , quan lại, địa chủ phong kiến được quyền lập đồn điền ở những vùng đất mà chúng gọi là “vô chủ”. Thực chất đó là đất đai của nông dân mà chúng đã đuổi đi để cướp đoạt. Nghị định này đã tạo điều kiện cho giới thực dân, địa chủ cướp đất lập đồn điền ở Đông Nam kỳ , vùng núi trung du Bắc Kỳ và Tây Nguyên…. Đến năm 1912 , tổng số ruộng đất bị chiếm làm đồn điền lên tới 470.000 ha. Trong đó , Nam Kỳ là 308.000ha , Bắc Kỳ là 136.000ha và Trung Kỳ là 26.000ha[1].

             Đối với Tuyên Quang công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp được được bắt đầu từ năm 1900. Vào thời điểm này dân cư Tuyên Quang còn thưa thớt, chủ yếu là các dân tộc ít người trải rộng trên một địa bàn rừng núi có nhiều tài nguyên lâm, thổ sản và khoáng sản rất cần thiết cho nền kinh tế thuộc địa. Để thực hiện kế hoạch khai thác thuộc địa ở Tuyên Quang , chính quyền thực dân đã tiến hành một số biện pháp như :

       - Thiết lập bộ máy cai trị thực dân - phong kiến từ tỉnh xuống đến các phủ-huyện-tổng-làng-bản bao gồm quan lại, thổ ty, châu mục làm công cụ để bóc lột áp bức nhân dân và xây dựng hệ thống đồn bốt nhằm đàn áp các cuộc nổi dậy của quần chúng. Riêng thị xã Tuyên Quang có một tiểu đoàn Lê Dương , một trại lính khố đỏ , một trại lính khố xanh cùng với Sở Cẩm , bóp Sen Đầm và một trại giam. Chúng còn xây dựng các đồn Bắc Mục , đồn Đăng Châu và nhiều đồn nhỏ ở các châu với hàng trăm lính dõng. Chúng còn lập ra kho bạc, bưu điện, lục lộ, nhà đoan, thuế vụ, canh nông…. nhằm vơ vét, bóc lột, áp bức đồng bào các dân tộc Tuyên Quang.

      - Xây dựng hệ thống giao thông đường bộ, đường thuỷ từ Tuyên Quang tới các địa phương khác, nhất là tuyến đường từ Hà Nội lên Tuyên Quang – Hà Giang dài hơn 320km. Cùng với tuyến đường bộ quan trọng này, thực dân Pháp còn xây dựng các tuyến đường từ Tuyên Quang đi các tỉnh như Yên Bái, Thái Nguyên, Cao Bằng, phát triển giao thông đường thuỷ. Đến năm 1930 đã có nhiều phương tiện chở hàng, chở khách từ Hà Nội, Việt Trì, Phú Thọ…. lên thị xã Tuyên Quang .

         - Tổ chức cướp đất, lập đồn điền trồng cây công nghiệp và khai thác lâm thổ sản. Dựa vào nghị định của toàn quyền Đông Dương, chính quyền thực dân, phong kiến đã tạo điều kiện cho bọn chủ Tây , địa chủ người Việt cướp đoạt ruộng đất của nông dân và các tộc người bản xứ. Nhất là đối với những làng, bản từng chống quân xâm lược. Đến năm 1910, chúng đã cướp đoạt 76.000ha rừng nguyên sinh, 30.000ha đất màu mỡ để mở các đồn điền trồng cây công nghiệp. Những tên tư bản Pháp như Roay-dơ-ba, Rap-planh, Đơ-mo-pu-đa, An-be , Rê-mơ-ny , Ri-vi-e, Đắc-cli-vê đã chiếm đoạt gần 17.000ha đất của nông dân Tuyên Quang[2] .

          Huy động dân phu đi lao động ở các công trình giao thông , xây dựng các đồn điền , hầm mỏ . Do lực lượng lao động ở Tuyên Quang không đủ , nên thực dân Pháp đã huy động và cuỡng bức lao động từ vùng đồng bằng sông Hồng lên bổ sung vào số lao động còn thiếu ở Tuyên Quang. Từ năm 1912 đến năm 1930, thực dân Pháp đã đưa lên Tuyên Quang hàng vạn lao động. Trong đó một số đã trở thành những phu mỏ, phu làm đường, phu đồn điền và đây chính là bộ phận đầu tiên của đội ngũ công nhân, lao động Tuyên Quang .

          Để phục vụ nhu cầu của bộ máy cai trị , thực dân Pháp cũng xây dựng các công sở, nhà ở, nhà máy đèn, nhà máy nước, khách sạn, nhà nghỉ, nhà hát, sòng bạc, tiệm hút…. Ngoài ra, chính quyền thực dân cũng cho xây dựng một số công trình vui chơi giải trí, thành lập các quán sách , báo nhằm lôi kéo sự chú ý của tầng lớp thanh niên , đề cao sức mạnh của nước “Đại Pháp”.

        Tuy nhiên, trọng tâm chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đối với Tuyên Quang vẫn là tìm kiếm các hầm mỏ, lập nhiều đồn điền để khai thác lâm thổ sản . Sau một thời gian thăm dò địa chất, thực dân Pháp bắt đầu khai thác và tinh chế quặng kẽm, thiếc ở Tràng Đà (thị xã Tuyên Quang); năm 1915 khai thác mỏ than Tuyên Quang … Chúng đã sử dụng hàng ngàn công nhân, lao động vào các công việc trên. Để vận chuyển các loại quặng và than, thực dân Pháp đã xây dựng đường goòng từ chợ Đồn - Bản Thi về Đầm Hồng (Chiêm Hoá) dài hàng chục km. Năm 1930, tại các hầm mỏ, đồn điền, các ngành giao thông, điện nước Tuyên Quang đã có gần 10.000 công nhân, lao động. Trong đó số lượng đáng kể là các công nhân, lao động từ các tỉnh khác đến như Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Bắc Ninh, Phú Thọ … Đó là kết quả của chính sách cưỡng bức di dân, bóc lột sức lao động của thực dân Pháp trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang những năm đầu thế kỷ XX.

       Sự phát triển của các ngành kinh tế thuộc địa đã làm thay đổi bước đầu bộ mặt Tuyên Quang trong những năm đầu thế kỉ XX. Đặc biệt là về mặt xã hội, đã làm xuất hiện những tầng lớp dân cư mới ở một tỉnh miền núi phía Bắc.        Trước hết đó là sự hình thành và phát triển đội ngũ công nhân, lao động , những người làm thuê bán sức lao động trong các hầm mỏ, xí nghiệp, đông điền. Đội ngũ công nhân Tuyên Quang được hình thành chủ yếu là từ một bộ phận nông dân ở các tỉnh miền xuôi bị mất ruộng đất , bị bần cùng hoá phải lưu lạc lên Tuyên Quang làm ăn sinh sống. Một bộ phận khác là công nhân , lao động ở khu vực mỏ than Hồng Gai – Đông Triều (Quảng Ninh) và các thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định … chuyển về. Đặc biệt là có một số lượng công nhân, lao động làm đường trên tuyến Hà Nội – Hà Giang , Hà Nội – Lào Cai…. Đến năm 1930, đội ngũ công nhân , lao động Tuyên Quang ở một số ngành như sau :

  Công nhân , lao động ở các đồn điền , khai thác lâm thổ sản        3.000

  Công nhân , lao động ở các hầm mỏ                                              2.500

  Công nhân , lao động ở các cơ sở hạ tầng điện , nước , dịch vụ    1.500

  Công nhân , lao động ở các công trình giao thông , xây dựng       2.000

  Công nhân , lao động ở các ngành khác                                         2.000

       Ngoài ra còn một số lao động tự do , thời vụ chủ yếu là dân địa phương làm việc ở thị xã , thị trấn …, đây là nguồn bổ sung quan trọng cho đội ngũ công nhân , lao động Tuyên Quang .

       Cùng với sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam , đội ngũ công nhân, lao động Tuyên Quang đã xuất hiện trong thời gian từ 1925-1930. Căn cứ vào hoàn cảnh xã hội có thể thấy đội ngũ công nhân, lao động Tuyên Quang mang một số đặc điểm riêng như sau :

  • Một là, đội ngũ công nhân, lao động Tuyên Quang được hình thành một phần lớn trên cơ sở nguồn lao động (công nhân, nông dân, thợ thủ công) từ các nơi khác đến. Nhất là các tỉnh, thành phố, thị xã thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng. Còn lại là một bộ phận công nhân, lao động xuất thân từ dân cư địa phương. Đây là một điều kiện quan trọng để tăng cường mối quan hệ giữa công nhân, lao động Tuyên Quang với giai cấp công nhân cả nước.
  • Hai là, đội ngũ công nhân, lao động Tuyên Quang được hình thành từ các cuộc khai thác thuộc địa, có mối quan hệ máu thịt với nông dân và đồng bào các dân tộc ở địa phương.
  • Ba là, đội ngũ công nhân, lao động Tuyên Quang số lượng không nhiều nhưng khá tập trung và ở trong một số ngành kinh tế thuộc địa. Đây là điều kiện thuận lợi để phát huy sức mạnh của công nhân, lao động Tuyên Quang trong Cách mạng dân tộc dân chủ và Cách mạng xã hội chủ nghĩa.
  • Bốn là, đội ngũ công nhân, lao động Tuyên Quang có mối quan hệ gầm gũi với làng quê, nên mạng nặng tâm lý nông dân. Nếu ở nông thôn, họ chịu ách áp bức của địa chủ phong kiến, khi ra thành thị họ bị ách bóc lột của tư bản thực dân. Hơn ai hết, họ là lực lượng Cách mạng nhất, lực lượng trung kiên nhất trong cuộc chiến đấu chống đế quốc, thực dân, phong kiến .

       Các cuộc khai thác thuộc địa còn đưa đến sự xuất hiện của bộ phận tư sản đầu tiên ở Tuyên Quang . Trong đó tư sản người Hoa làm nghề buôn bán ; tư sản người Pháp kiêm chủ đồn điền khai mỏ; tư sản người Việt làm dịch vụ và các cơ sở sản xuất nhỏ. Theo thống kê, đến năm 1930 Tuyên Quang có gần 100 hộ tư sản với tính chất kinh doanh và bóc lột mang màu sắc khác nhau. Tư sản người Pháp được sự nâng đỡ của chính quyền thực dân nên độc chiếm quyền buôn bán rượu, muối, thương mại, đã chèn ép và cạnh tranh gay gắt với tư sản người Việt. Tư sản người Việt đều có tinh thần dân tộc, luôn phản kháng các chính sách độc quyền của thực dân Pháp.

         Tiểu tư sản ở Tuyên Quang có số lượng không nhiều, họ gồm tiểu thương, tiểu chủ và các nghề thủ công như thợ may, đóng giày, chủ hiệu cắt tóc, buôn bán nhỏ. Họ là viên chức, công chức làm việc trong bộ máy chính quyền thực dân, ràng buộc ít nhiều vào guồng máy kinh tế thuộc địa . Nhưng họ vẫn bị chèn ép, chịu nhiều cảnh bất công và nỗi tủi nhục của người dân mất nước . Phần lớn tiểu tư sản đều có tinh thần dân tộc, có quan hệ gần gũi với nhân dân lao động . Đặc biệt là trong tiểu tư sản có một bộ phận trí thức tiến bộ có thể tiếp thu những trào lưu tư tưởng mới, những tư tưởng Cách mạng.

           Địa chủ , phong kiến người Việt ở Tuyên Quang , một phần xuất thân từ những thổ ty, phìa bản, một phần là địa chủ ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ lên nhằm khai thác nguồn đất và bóc lột sức lao động. Tuyên Quang còn có một số địa chủ xuất thân từ quan lại, công chức của chế độ thực dân, phong kiến đã chiếm đất, lập đồn điền. Ngoài ra còn có địa chủ người Pháp, người Hoa… số này ít quản lý đất đai, đồn điền mà thường giao lại cho người Việt trông nom để thu tô, bóc lột sức lao động. Nhìn chung thì số lượng địa chủ ở Tuyên Quang không nhiều, phương thức bóc lột chủ yếu là thu tô đối với tá điền . Một bộ phận địa chủ ở Tuyên Quang cũng bị chế độ thực dân chèn ép dù quyền lợi của họ gắn bó ít nhiều với chế độ thuộc địa nửa phong kiến.

        Nông dân ở Tuyên Quang là một bộ phần của giai cấp nông dân Việt Nam, mang những đặc điểm và truyền thống yêu nước của cả dân tộc. Tuy nhiên ở vùng núi xa xôi, hẻo lánh, giao thông đi lại khó khăn, kinh tế bị kìm hãm nên họ bị bóc lột vô cùng thậm tệ, phải chịu cảnh sống rất cực khổ. Nông dân Tuyên Quang vừa chịu ách áp bức bóc lột của thổ ty, lại vừa chịu sự áp bức bóc lột của thực dân phong kiến. Do đó vấn đề giải phóng nông dân ở Tuyên Quang phải gắn liền với việc giải phóng đồng bào các dân tộc. Trải qua quá trình lao động sản xuất, dù bị chế độ thực dân, phong kiến bóc lột và đàn áp tàn bạo thì nông dân Tuyên Quang vẫn giữ truyền thống đoàn kết yêu nước, căm thù thực dân xâm lược, quyết đấu tranh để giành lấy tự do độc lập, giải phóng làng bản quê hương .   

          Như vậy trải qua hai cuộc khai thác thuộc địa , xã hội Tuyên Quang đã có nhiều thay đổi , vùa mang đặc điểm chung của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến, lại vừa mang đặc điểm riêng của một tỉnh có nhiều dân tộc, lạc hậu và kém phát triển so với nhiều tỉnh ở đồng bằng Bắc Kỳ. Ngoài ra xã hội Tuyên Quang còn chịu ảnh hưởng của những phong tục, tập quán của các dân tộc ở địa phương .

2. Ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp và những cuộc đấu tranh của công nhân, lao động Tuyên Quang:

        Chính sách cai trị và ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp đối với các dân tộc nói chung, đối với công nhân, lao động Tuyên Quang nói riêng là vô cùng tàn bạo . Đó là sự kết hợp giữa ách bóc lột của tư bản thực dân với ách bóc lột của địa chủ phong kiến, mang tính bản địa của những thủ lĩnh các họ, các tộc  có từ lâu đời .

         Chính quyền thực dân đã đặt ra nhiều loại thuế khác nhau nhằm vơ vét tài nguyên khoáng sản , lâm thổ sản , bóc lột sức lao động …Chúng dùng hình thức cho vay nặng lãi, buôn bán độc quyền các hàng hoá như muối, diêm, dầu lửa, vải thô. Bằng các thủ đoạn thâm độc về kinh tế, chính trị, xã hội, thực dân Pháp đã bóc lột tận cùng nông dân, công nhân, lao động Tuyên Quang. Đặc biệt là những công nhân làm việc trong các mỏ than, mỏ kẽm, khai thác gỗ, làm đường, xây dựng. Chúng đã đẩy nhanh quá trình “bần cùng hoá” ở khu vực nông thôn, làm cho nhiều hộ nông dân lâm vào cảnh khốn cùng và bổ sung vào đội quân “nửa vô sản” đang ngày càng tăng trong các ngành kinh tế thuộc địa.

        Những người công nhân, lao động phải  làm việc vất vả với mức lương chết đói, không đủ chi tiêu cho mức sống thấp nhất của cá nhân với các mặt hàng thiết yếu như gạo, muối, diêm, dầu hoả, cá, mắm…. Còn các nhu cầu khác như thuốc men lúc ốm đau và nuôi sống vợ con, gia đình thì hoàn toàn không thể đáp ứng. Không chỉ như vậy, người công nhân còn phải đóng thuế thân một năm từ 2,3 đồng đến 3 đồng[3] .

        Nhìn chung công nhân, lao động Tuyên Quang nhiều người từ dưới xuôi lên, nên không có nơi ăn, ở ổn định, phải thuê nhà của bọn chủ, bọn cai kí và một số địa chủ quanh hầm mỏ, nhà máy, đồn điền. Để cột chặt người công nhân vào hầm mỏ, xí nghiệp, bọn cai kí, bọn chủ thường cho họ vay tiền trước lương theo kiểu “bán lúa non” với lãi suất cao. Bên cạnh đó chúng còn tìm mọi cách chia rẽ công nhân, lao động, đó là chia rẽ giữa người địa phương này với địa phương khác, người các nơi với người bản xứ Tuyên Quang. Đặc biệt với bọn chủ đồn điền, chúng còn mua chuộc, lôi kéo đồng bào dân tộc ít người, chúng cho họ bạc trắng, diêm muối để canh phòng công nhân, lao động không cho họ trốn khỏi đồn điền. Thậm chí có lúc chúng còn treo thưởng nếu ai bắt hoặc giết được những công nhân, lao động phản kháng lại bọn chủ Tây và cai kí độc ác.       

           Lao động vất vả, tiền công rẻ mạt, cuộc sống quá cơ cực do đó bệnh tật thường xuyên xảy ra đe doạ tính mạng người công nhân , lao động .Tuyên Quang là nơi “rừng thiêng nước độc” , “lam sơn chướng khí” nên ở nhiều hầm mỏ, đồn điền, nhà máy tỷ lệ công nhân mắc bệnh sốt rét, thương hàn, lao phổi rất cao. Do đó số công nhân, lao động chết vì ốm đau, bệnh tật ngày càng nhiều. Theo thống kê từ năm 1930 đến 1932, đã có hàng trăm công nhân, lao động bị chết do ốm đau, bệnh tật …. Trong đó phần lớn là người Kinh và người từ các nơi khác đến.

          Có thể nói ách áp bức bóc lột của tư bản , phong kiến đối với công nhân, lao động Tuyên Quang đã đẩy họ vào tình cảnh bi thương. Nhưng ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh, đấy cũng là quy luật tất yếu trong phong trào đấu tranh của đội ngũ công nhân, lao động. Từ khi xuất hiện những bộ phận đầu tiên, công nhân, lao động Tuyên Quang đã kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc, của quê hương, sớm bước vào cuộc đấu tranh chống ách nô dịch dân tộc và ách áp bức giai cấp .

          Trước hết công nhân, lao động Tuyên Quang đã tham gia vào những phong trào yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược. Họ đã cùng đồng bào các dân tộc Kinh, Tày, Mường, Dao… vũ trang chống quân Pháp trong khu vực thị xã và vùng lân cận. Trong đội nghĩa quân do đốc Thịnh chỉ huy có nhiều công nhân, lao động tham gia chiến đấu gây cho địch nhiều thiệt hại nặng nề .

         Tiếp đó công nhân , lao động đã tham gia vào phong trào dân tộc do các sỹ phu yêu nước như tuần phủ Nguyễn Quang Bích, bố chánh Nguyễn Văn Giáp lãnh đạo hoặc phong trào nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám. Nhiều công nhân, lao động ở thị xã, hầm mỏ, đồn điền đã tham gia nghĩa quân Yên Thế,  góp phần duy trì cuộc khởi nghĩa Yên Thế được gần 30 năm, gây cho quân xâm lược nhiều thiệt hại.

         Tiếp nối với phong trào nông dân Yên Thế , trong hai năm 1913-1914 ở Tuyên Quang đã có cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp của hai thủ lĩnh người Dao là Triệu Kiến Tiên và Triệu Tài Lộc chỉ huy . Cuộc khởi nghĩa này đã có sự tham gia của công nhân làm đường tuyến Tuyên Quang – Hà Giang và công nhân đồn điền ở hai huyện Yên Bình , Na Hang.

         Năm 1917, cuộc khởi nghĩa do Lương Ngọc Quyến và Đội Cấn lãnh đạo nổ ra ở Thái Nguyên . Cuộc khởi nghĩa này không những có sự tham gia của công nhân , lao động ở thành phố Thái Nguyên mà còn có cả sự tham gia của nhiều công nhân làm đường bộ , đường dây thép ở Tuyên Quang . Khi cuộc khởi nghĩa bị thất bại , nhiều chiến sĩ yêu nước đã chạy sang Tuyên Quang và được sự che chở , nuôi giấu của các công nhân mỏ than, mỏ kẽm , đồn điền .

         Từ đầu năm 1920 chịu ảnh hưởng của các phong trào yêu nước, công nhân, lao động và các tầng lớp nhân dân Tuyên Quang đã hưởng ứng các phong trào yêu nước như để tang cụ Phan Chu Trinh, đòi Pháp phải ân xá cho cụ Phan Bội Châu … Đặc biệt những hoạt động yêu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã lôi kéo nhiều trí thức , học sinh tham gia , góp phần cổ vũ phong trào yêu nước tại Tuyên Quang .

        Cùng với việc tham gia vào phong trào yêu nước, đội ngũ công nhân, lao động Tuyên Quang còn đấu tranh đòi các quyền lợi thiết yếu của mình. Các cuộc đấu tranh này diễn ra ngay từ khi có những bộ phận công nhân đầu tiên, là một phần trong cuộc đấu tranh giai cấp theo quy luật “ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh”.

        Đầu thế kỉ XX đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh của công nhân , lao động ở các đồn điền chống chính sách bóc lột tàn bạo của bọn chủ Pháp . Các cuộc đấu tranh này có sự hưởng ứng , đồng tình và ủng hộ của đồng bào các dân tộc Tuyên Quang . Có nhiều cuộc đấu tranh công nhân , lao động đồn điền đã dùng các phương tiện thô sơ , gây áp lực đòi bọn chủ phải cải thiện điều kiện sống và làm việc như tăng lương , giảm giờ làm , trang bị quần áo và cung cấp thuốc men cho những người bị ốm đau , bệnh tật .

         Tháng 3 /1913 toàn bộ công nhân , lao động ở các đồn điền Nà Đồn , Đài Thị (Chiêm Hoá) đã đình công đòi tên chủ Pháp Đét-sô-ven phải trả đủ lương tháng , không được bớt xén, cúp phạt vô lý và nhất là không được đánh đạp , quấy rối các nữ công nhân , lao động .

         Năm 1915, thực dân Pháp gấp rút xây dựng tuyến đường giao thông từ Hà Nội lên Hà Giang, nối với biên giới Trung Quốc. Chúng đã huy động hàng chục vạn lượt công nhân, lao động, phu phen làm việc trên tuyến đường này. Do điều kiện lao động cực nhọc vất vả , các loại bệnh sốt rét và ngã nước xảy ra liên tục đã làm cho hàng ngàn người bị chết , xác bỏ rừng sâu núi đỏ.

          Trong bối cảnh đó, nhiều cuộc đấu tranh của công nhân , lao động trên tuyến đường đã diễn ra. Trước hết là nhiều người bỏ việc , sau đó là bãi công, đình công đòi tăng lương , cải thiện điều kiện làm việc. Theo thống kê thì từ năm 1913 đến 1920 đã có hơn 150 cuộc đấu tranh phản kháng của công nhân, lao động xây dựng tuyến đường từ Tuyên Quang đi Hà Giang . Các cuộc đấu tranh vừa thể hiện sự phản kháng của người lao động đối với ách áp bức bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp, vừa làm cho công cuộc khai thác và cai trị của chúng gặp nhiều khó khăn ở vùng núi phía Bắc rộng lớn.

       Tiếp đó là những cuộc đấu tranh của công nhân , lao động ở mỏ than, mỏ kẽm các đồn điền diễn ra liên tục trong những năm 1920 đến 1925. Họ đấu tranh đòi tăng lương tối thiểu cho nam giới trên 25 xu/ngày, được nghỉ ngày chủ nhật, ngày lễ theo phong tục của đồng bào bản địa.

        Là một tỉnh miền núi, trữ lượng gỗ và các loại lâm thổ sản phong phú nên Tuyên Quang còn có hàng ngàn công nhân, lao động, phu phen làm nghề khai thác gỗ và lâm thổ sản…, đời sống của họ cực kỳ khó khăn, kham khổ. Họ phải đối mặt với khí hậu khắc nghiệt, ma thiêng, nước độc, thú dữ, bệnh tật luôn đe doạ mạng sống . Họ cũng đã có nhiều cuộc đấu tranh chống lại bọn cai, ký, thầu khoán là tay chân của giới chủ đồn điền, địa chủ nhằm đòi những quyền lợi thiết yếu cho chính mình .

         Các cuộc đấu tranh vì quyền lợi giai cấp của công nhân, lao động là một bộ phận của phong trào đấu tranh chống áp bức của nhân dân các dân tộc Tuyên Quang. Trong những năm 20 của thế kỉ trước, đồng bào các dân tộc đã có nhiều cuộc đấu tranh chống chính sách cai trị của thực dân , phong kiến. Tiêu biểu là phong trào phản kháng chống chính sách sưu thuế khắc nghiệt của nhân dân các xã Lâm Xuyên , Hà Phú , Hồng Lạc ,Tân Trào (Sơn Dương). Phong trào đấu tranh của nông dân chống việc cướp đất lập đồn điền.

          Nhìn chung phong trào đấu tranh của công nhân, lao động trước năm 1925 vừa mang yếu tố dân tộc, vừa mang yếu tố giai cấp. Cho dù trong thời kỳ đầu, phong trào đấu tranh của công nhân, lao động Tuyên Quang còn tự phát, còn lẻ tẻ, còn manh động và bị đàn áp dã man. Nhưng đã :“ Thể hiện lòng dũng cảm , tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân các dân tộc Tuyên Quang”[4] . Qua đó đặt cơ sở, nền tảng để công nhân, lao động Tuyên Quang trưởng thành về ý thức dân tộc, ý thức giai cấp, đón nhận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng yêu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, chuyển sang giai đoạn tự giác dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tuyên Quang nói riêng và Đảng Cộng Sản Việt Nam nói chung .

2. Sự ra đời và hoạt động của những cơ sở Công hội đầu tiên ở Tuyên Quang.

      Từ năm 1925, sau khi tổ chức Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí hội được thành lập, nhiều Đảng viên của tổ chức này đã lên hoạt động tại Tuyên Quang . Họ đã đến khu vực thị xã , đến các mỏ than, mỏ thiếc và nhiều đồn điền để tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho công nhân, lao động, tạo nên nhiều chuyển biến ở vùng này. Đến cuối năm 1929, Tuyên Quang đã có một cơ sở của tổ chức Thanh niên Cách mạng đồng chí hội; ở các mỏ than, mỏ kẽm và nhiều cơ sở trong thị xã đã có hội ái hữu, tương tế của công nhân, lao động.                    

          Trong thời gian này cũng đã diễn ra một số cuộc đấu tranh của công nhân, lao động nhằm chống lại ách áp bức , bóc lột của thực dân , phong kiến. Các cuộc đấu tranh này có sự lãnh đạo của các Đảng viên tổ chức thanh niên Cách mạng đồng chí hội, hoặt các cơ sở ái hữu, tương tế ở nhà máy, đồn điền. Tuy nhiên hoạt động của cơ sở tổ chức Thanh niên Cách mạng đồng chí hội tại Tuyên Quang chưa được mở rộng, chỉ trong phạm vi thị xã và bị kẻ thù theo dõi khủng bố. Việc thành lập các tổ chức quần chúng cũng chưa làm được, mà chỉ mới có một số cơ sở manh nha, mầm mống ở các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền.

          Tuy nhiên do những điều kiện khách quan và chủ quan , việc xây dựng cơ sở Đảng, cơ hội công hội ở Tuyên Quang nói riêng và các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung còn gặp nhiều khó khăn. Đến tháng 1/1930, sự chỉ đạo của của Đông Dương cộng sản Đảng và Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ mới chỉ dừng lại ở mức độ là cử phái viên lên hoạt động trong phong trào công nhân, lao động ở một số các hầm mỏ, đồn điền.

          Sau khi tổ chức Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ được thành lập (28/7/1929), đã có một số cán bộ của tổ chức này lên hoạt động ở Tuyên Quang , Hà Giang, Cao Bằng… Do những khó khăn nên sự chỉ đạo của  Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ mới chỉ ở mức độ là đưa cán bộ lên hoạt động trong công nhân, lao động ở một số hầm mỏ, đồn điền. 

          Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam được thành lập, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức là: Đông Dương cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ , An Nam cộng sản Đảng ở Nam Kỳ và Đông Dương cộng sản liên đoàn ở Trung Kỳ. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắt tắt , Sách lược vắn tắt , Điều lệ vắn tắt của Đảng.

          Sự ra đời của Đảng đã đưa phong trào Cách mạng cả nước phát triển sang một thời kỳ mới. Chỉ một thời gian ngắn sau khi Đảng ta ra đời, cơ sở của Đảng và của tổ chức Công hội đỏ được xây dựng ở hầu khắp các thành phố, thị xã và trung tâm công nghiệp. Tuy nhiên tại các vùng xa xôi, cách trở như Tuyên Quang , Hà Giang … phong trào cách mạng còn rất nhiều khó khăn. Riêng tại Tuyên Quang từ năm 1930 đến năm 1934, sự chỉ đạo của Đảng và tổ chức Công hội đỏ chưa được xác lập, trong khi nhiều tỉnh khác đã có tổ chức Đảng, Công hội đỏ. 

         Tháng 3 năm 1935 Đại hội Đảng lần thứ I đã họp tại Ma Cao (Trung Quốc), đề ra đường lối của Cách mạng Việt Nam trong thời kì vận động dân chủ, đòi tự do cơm áo, hoà bình . Đại hội nêu ra ba nhiệm vụ của toàn Đảng trong thời gian trước mắt là “củng cố và phát triển Đảng , tranh thủ quần chúng rộng rãi , chống chiến tranh đế quốc … phải củng cố phát triển các tổ chức quần chúng”[5] như công hội , thanh niên , phụ nữ . Đại hội đã chỉ ra những thiếu sót trong nhiệm vụ xây dựng Đảng và các tổ chức quần chúng , đồng thời vạch rõ : Đảng cần phải phân phối lực lượng của mình tới những chỗ chưa phát triển , tới các vùng rừng núi , hầm mỏ, đồn điền, nhất là các tỉnh rừng núi phía Bắc, Tây Nguyên, miền Đông Nam bộ.

        Tháng 6/1937 đồng chí Hoàng Văn Lịch một Đảng viên kiên trung đã được xứ uỷ Bắc Kỳ cử về hoạt động cách mạng tại Tuyên Quang. Với nhiệm vụ tuyên truyền, xây dựng tổ chức Đảng và các tổ chức quần chúng như công hội, thanh niên, phụ nữ… đồng chí Hoàng Văn Lịch đã nhanh chóng đi vào hoạt động trong công nhân, lao động ở nhiều hầm mỏ, đồn điền.

         Với tên bí danh cách mạng là Hai Cao , đồng chí Hoàng Văn Lịch đã gây dựng cơ sở Cách mạng ở mỏ than, mỏ kẽm và nhiều đồn điền khác. Chỉ sau một thời gian ngắn, đồng chí đã giác ngộ tinh thần yêu nước, yêu giai cấp, lòng căm thù đế quốc, phong kiến cho nhiều công nhân, lao động. Thấm nhuần tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”: “Tổ chức công hội trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau , ba là sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ , bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công nhân, năm là để giúp cho quốc dân , giúp cho thế giới”[6]. Đồng chí Hoàng Văn Lịch đã tuyên truyền, giác ngộ một số công nhân và thành lập cơ sở công hội đầu tiên gồm các đồng chí Hoàng Lan, Trần Xuân Hồng, Quang Mai, Đức Kim, Hải Bằng, Đen. Đồng chí Hoàng Văn Lịch đã cử các đồng chí Trần Xuân Hồng, Lương Hải Bằng, Trần Hải Kế đi xây dựng cơ sở công hội ở các nhà máy, mỏ than, mỏ kẽm… Kết quả đến đầu năm 1938, ở Tuyên Quang đã có 5 cơ sở công hội, với tên gọi là Nghiệp đoàn ái hữu có số lượng hội viên là gần 20 người. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Hoàng Văn Lịch, các cơ sở công hội này đã tích cực hoạt động, góp phần vào sự vận động công nhân, lao động Tuyên Quang . Tháng 2/1938 , trên cơ sở giác ngộ một số công nhân , thanh niên trẻ ở khu vực thị xã và nhiều cơ sở kinh tế , đồng chí Hoàng Văn Lịch đã thành lập Đoàn thanh niên Dân chủ, đặt tiền đề cho phong trào thanh niên phát triển sau này.

       Việc một số cơ sở Nghiệp đoàn ái hữu và Đoàn thanh niên dân chủ được thành lập ở Tuyên Quang đã thúc đẩy phong trào Cách mạng ở đây chuyển biến. Dưới sự chỉ đạo của xứ uỷ Bắc Kỳ , đồng chí Hoàng Văn Lịch và một số đồng chí Đảng viên, Đoàn viên công hội và Đoàn thanh niên dân chủ tích cực hoạt động, từng bước đưa phong trào cách mạng Tuyên Quang phát triển. Vào thời điểm này, cuộc vận động cách mạng đòi tự do, cơm áo, hoà bình do Đảng ta phát động đã tập hợp tất cả mọi lực lượng chống chủ nghĩa phát xít và bọn phản động thuộc địa. Phương châm cuộc vận động là tận dụng mọi khả năng hợp pháp, nửa hợp pháp, kết hợp với hình thức công khai, nửa công khai và bí mật để phát triển phong trào Cách mạng .

          Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh đòi các quyền lợi dân chủ, dân sinh đã sôi động khắp cả nước . Các loại báo chí Cách mạng của Đảng, của nghiệp đoàn ái hữu đã phát hành công khai, hướng dẫn cổ vũ phong trào đấu tranh của công nhân , lao động. Các tổ chức quần chúng như nghiệp đoàn ái hữu, thanh niên dân chủ , phụ nữ dân chủ …được thành lập và ngày càng phát triển ảnh hưởng ra khắp mọi vùng của Tổ Quốc .

           Tại Tuyên Quang giữa năm 1938, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Hoàng Văn Lịch, các cơ sở công hội ở mỏ than, mỏ kẽm… và ở một số nhà máy, xi nghiệp trong thị xã đã tổ chức nhiều cuộc bãi công, đình công chống lại bóc lột, đòi các quyền lợi dân chủ, dân sinh. Thông qua các cuộc đấu tranh đó, nhiều cơ sở Cách mạng đã được thành lập, đưa phong trào Cách mạng Tuyên Quang dần hoà nhập với phong trào Cách mạng ở Bắc Kỳ. Cũng từ đây xứ uỷ Bắc Kỳ đã gây dựng đường dây liên lạc với Tuyên Quang. Gia đình đồng chí Trần Xuân Hồng là công nhân mỏ than, là đoàn viên Công hội đỏ đã trở thành đầu mối nhận và phân phát tài liệu , sách báo Cách mạng cho khu vực thị xã và nhiều nơi khác .

           Tháng 4 / 1938, được sự giúp đỡ của Nghiệp đoàn ái hữu Bắc Kỳ, Chi bộ Đảng Mỏ than, Hội ái hữu thợ thuyền được thành lập tại thị xã Tuyên Quang, trụ sở đặt tại phố CôLôren-Valie (nay thuộc khu Xuân Hoà, thị xã Tuyên Quang). Hội ái hữu thợ thuyền Tuyên Quang có cơ sở ở các mỏ than , mỏ kẽm, một số đồn điền thuộc các huyện Chiêm Hoá, Sơn Dương. Các đồng chí công nhân như Hoàng Lan, Trần Xuân Hồng, Quang Mai, Đức Kim, Nguyễn Hải Bằng… là những đoàn viên nghiệp đoàn ái hữu đầu tiên ở Tuyên Quang.

         Giữa năm 1938 , xứ uỷ Bắc Kỳ điều động đồng chí Vũ Mùi là uỷ viên xứ uỷ Bắc Kỳ lên hoạt động tại Tuyên Quang thay cho đồng chí Hoàng Văn Lịch trở về Cao Bằng . Trên cơ sở phong trào quần chúng ở Tuyên Quang, đồng chí Vũ Mùi đã tiếp tục tuyên truyền, giác ngộ công nhân, lao động chỉ đạo nhiều cuộc đấu tranh đòi tự do, cơm áo, hoà bình.

          Cuối năm 1938 đã diễn ra hai cuộc đình công của công nhân mỏ than Tuyên Quang đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống đánh đập, cúp phạt. Tiếp đó nhiều cuộc bãi công của công nhân, lao động nổ ra tại mỏ kẽm, các đồn điền.  Phần lớn các cuộc đấu tranh này đã giành được một số thắng lợi buộc bọn chủ phải tăng lương 10% và giờ lao động từ 8 đến 10 giờ/ngày. Những thắng lợi này đã cổ vũ công nhân, lao động và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang trong cuộc đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Đông Dương và của Nghiệp đoàn Ái hữu càng thêm sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân .

           Đầu năm 1939 , trên tuyến đường vận chuyển than, khoáng sản và các lâm thổ sản từ khu vực Đầm Hồng (Chiêm Hoá) ra Quảng Ninh. Xứ uỷ Bắc Kỳ đã xây dựng đường dây liên lạc do đồng chí Cả Hàm phụ trách. Đường dây liên lạc của Đảng hình thành, đã tạo nên mối liên hệ rộng và chặt chẽ giữa phong trào Cách mạng Tuyên Quang với vùng Đông Bắc Tổ quốc. Đường dây liên lạc này có sự tham gia của nhiều đoàn viên thuộc cơ sở nghiệp đoàn ái hữu trong đoàn thuyền sắt. Tháng 10/1939, cơ sở Nghiệp đoàn ái hữu trong đoàn thuyền sắt đã tổ chức công nhân lao động đình công đòi tăng lương, tăng cước vận tải. Cuộc đình công đã kéo dài 5 ngày và buộc bọn chủ phải tăng thêm tiền công của mỗi chuyến thuyền từ 1,5 đồng đến 2 đồng[7].

          Phong trào đấu tranh của công nhân, lao động đã ảnh hưởng đến phong trào nhân dân thị xã và nông dân các vùng phụ cận. Phạm vi hoạt động của nhiều tổ chức quần chúng như Nghiệp đoàn ái hữu , Đoàn thanh niên dân chủ… ngày càng mở rộng. Trên cơ sở đó, xứ uỷ Bắc Kỳ đã xây dựng được nhiều cơ sở quần chúng trung kiên . Đó là cơ sở Cách mạng của Đảng tại Soi Hồng Lương, Soi Sinh, mỏ than, mỏ kẽm, đoàn thuyền sắt … Những kết quả này đã đưa phong trào Cách mạng ở Tuyên Quang phát triển sang giai đoạn mới, giai đoạn vận động trực tiếp giành chính quyền .

II- Phong trào công nhân, lao động và Công đoàn Tuyên Quang trong giai đoạn vận động giành chính quyền (1939-1945).

1. Trong cuộc vận động Cách mạng ( 1939-1941 ).

        Ngày 1/9/1939, phát xít Đức nổ súng tấn công Ba Lan mở màn cho cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II , đẩy nhân loại vào những mất mát, đau thương và tổn thất chưa từng có [8] . Chiến tranh thế giới lần thứ II đã diễn ra khắp năm châu và trên tất cả các đại dương, cuốn theo 72 nước vào vòng chiến tranh khốc liệt.

        Ở Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung, chính quyền thuộc địa đứng đầu là toàn quyền Đơ - Cu đã thi hành chính sách phản động, xoá bỏ mọi quyền lợi dân chủ dân sinh, ra sức khủng bố các chiến sĩ Cách mạng, tăng cường vơ vét sức người, sức của ném vào chiến tranh. Bọn phát xít quân phiệt thuộc địa đã thẳng tay khủng bố, truy lùng cán bộ, Đảng viên, đàn áp dã man phong trào yêu nước của nhân dân ta .

         Trước tình thế đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương lần thứ VI chủ trương Cách mạng nước ta : “ Phải kịp thời chuyển hướng hoạt động bí mật . Hoạt động bí mật không phải là nằm im trước sự khủng bố của giặc . Đảng vẫn phát triển lực lượng , đoàn kết rộng rãi các tầng lớn , các giai cấp , các dân tộc để đánh bại kẻ thù của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc phát xít”[9]. Để tập hợp mọi lực lượng vào cuộc vận động giải phóng dân tộc, Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ. Hội nghị nhấn mạnh hai nhân tố cơ bản của Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương: công-nông là chính và giai cấp công nhân lãnh đạo “ Sự đồng minh chặt chẽ của công - nông là vấn đề sống chết của Cách mệnh”[10].

         Sự chuyển hướng về đường lối chiến lược và phương pháp cách mạng của Đảng tại hội nghị Trung ương VI (khoá 1) đã phản ảnh tình thế và thời cơ cách mạng cả nước đang dần đến. Muốn có lực lượng cách mạng, phải xây dựng được nhiều cơ sở trong các giai cấp , tầng lớp trong xã hội , phải phát triển lực lượng đồng đều ở mọi địa bàn, đặc biệt là ở các thành phố và trung tâm công nghiệp, nơi tập trung công nhân, lao động. Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng tới vùng sâu, vùng xa, nơi có nhiều đồng bào dân tộc ít người, nơi tập trung lực lượng công nhân, lao động. Từ đầu năm 1940, Trung ương Đảng đã cử nhiều đồng chí đặc phái viên đi xây dựng tổ chức Đảng ở những nơi mà cơ sở Đảng còn yếu, hoặc chưa được thành lập .

         Tại Tuyên Quang, mặc dù phong trào cách mạng đã có nhiều chuyển biến, nhiều tổ chức quần chúng được thành lập trong công nhân, lao động, tuy nhiên vẫn chưa thành lập được Đảng bộ cấp tỉnh. Tình hình đó đã gây trở ngại cho phong trào cách mạng địa phương trong lúc chính quyền thực dân phản động đã ra mặt đàn áp các lực lượng cách mạng, xoá bỏ hết mọi quyền lợi dân chủ, dân sinh mà công nhân, lao động đã giảnh được trong thời kỳ 1936-1939.

        Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VI, Xứ uỷ Bắc Kỳ đã quyết định thành lập tổ chức Đảng tại mỏ than để lãnh đạo phong trào cách mạng Tuyên Quang . Ngày 20/3/1940, hội nghị thành lập tổ chức Đảng tại Tuyên Quang đã được tiến hành tại nhà đồng chí Ninh Văn Kiến (còn gọi là Cả Kiến) là công nhân và là đoàn viên Hội Công nhân phản đế. Đồng chí Đào Duy Kỳ, xứ uỷ viên, đại diện cho Xứ uỷ Bắc Kỳ đọc quyết định công nhận và giao nhiệm vụ cho tổ chức Đảng Tuyên Quang . Tổ chức Đảng Tuyên Quang gồm có 7 đồng chí là: Vũ Mùi, Lương Quang Mai , Trần Xuân Hồng (Hồng lớn), Bùi Văn Đức (tức Đức Kim), Lương Hải Bằng (tức Lương Văn Hải), Trần Hải Kế và Trần Thị Minh Châu. Đồng chí Vũ Mùi được chỉ định làm bí thư tổ chức Đảng đầu tiên tại Tuyên Quang.

       Việc tổ chức Đảng Tuyên Quang được thành lập, là kết quả một quá trình vận động của phong trào công nhân Tuyên Quang. Đây cũng là kết quả sự chỉ đạo đúng đắn của xứ uỷ Bắc Kỳ trên cơ sở chủ trương đường lối Cách mạng của Đảng, là kết quả quá trình hoạt động của nhiều cán bộ, Đảng viên tiêu biểu là Hoàng Văn Lịch, Vũ Mùi và nhiều đồng chí khác. Cho dù chưa phải là một tổ chức có tầm cỡ cấp tỉnh, nhưng chi bộ mỏ than ở Tuyên Quang đã gánh vác vai trò, trách nhiệm lãnh đạo phong trào cách mạng Tuyên Quang cho đến khi Tỉnh đảng bộ Tuyên Quang chính thức thành lập. Vì vậy chi bộ mỏ than thực sự là tổ chức tiền thân của Đảng bộ Tuyên Quang và các Đảng viên đầu tiên của chi bộ là nòng cốt của Đảng bộ tỉnh nhà sau này. Chi bộ mỏ than đã đáp ứng yêu cầu của phong trào cách mạng Tuyên Quang, trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân, đưa phong trào cách mạng ở đây vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương.

          Sau khi được thành lập, chi bộ mỏ than đã nhanh chóng phát triển đảng viên, thành lập các tổ chức quần chúng như Hội Công nhân phản đế, Hội Nông dân phản đế và thành lập các đội tự vệ ở thị xã, ở các đồn điền mà nòng cốt là công nhân, lao động. Tháng 5/1940, các đội tự vệ mỏ than, mỏ thiếc, ở một số đồn điền và cơ sở kinh tế trong thị xã được thành lập . Nhiệm vụ của các đội tự vệ là “để bảo vệ và hỗ trợ cho các hoạt động của quần chúng công nhân, lao động”[11] đấu tranh chống áp bức , bóc lột .

        Từ tháng 9/1940 cuộc chiến tranh thế giới thứ II ngày càng ác liệt , tại Châu Âu  phát xít Đức đánh bại liên quân Pháp – Anh lần lượt chiếm đóng các nước Bỉ, Hà Lan, Na Uy, Đan Mạch, Pháp… tại Châu Á, phát xít Nhật tăng cường xâm lược Trung Quốc và lợi dụng khi Pháp bị thất bại ở Châu Âu đã nhảy vào Đông Dương. Lúc này, nhân dân ta chịu 2 tầng áp bức của thực dân Pháp và phát xít Nhật . Nhận xét về sự kiện này , chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói : “ Mùa thu năm 1940 , phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương đề mở thêm căn cứ đánh quân Đồng minh thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng , mở cửa nước ta rước Nhật . Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích Pháp và Nhật”[12].

        Một sự kiện đã tác động đến phong trào cách mạng ở Tuyên Quang và các tỉnh phía Bắc là : khi quân Nhật đánh vào Lạng Sơn, quân Pháp hèn nhát rút chạy qua đường Bắc Sơn về Thái Nguyên, chính quyền địch ở vùng này tan rã . Nắm được cơ hội đó, nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương đã vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Song do những điều kiện khách quan, chủ quan nên chính quyền cách mạng chỉ tồn tại thời gian ngắn và ở trong phạm vi một huyện. Nhưng khởi nghĩa Bắc Sơn có ý nghĩa mở đầu cho cao trào giải phóng dân tộc ở Đông Dương và thời kỳ Cách mạng nước ta sử dụng các hình thức bạo lực Cách mạng, đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị , nổi dậy của quần chúng cách mạng đánh đổ chính quyền đế quốc -phong kiến, giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Tiếng súng khởi nghĩa Bắc Sơn đã thức tỉnh tinh thần Cách mạng của nhân dân cả nước .Vào thời điểm này thực hiện nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ VII, công đoàn Việt Nam đuợc đổi tên từ “Nghiệp đoàn Ái hữu” thành “Hội Công nhân phản đế”. Mục tiêu, nhiệm vụ của “Hội Công nhân phản đế” trong giai đoạn mới là “đấu tranh bảo vệ lợi ích hằng ngày của công nhân … chuẩn bị lực lượng Cách mạng chờ đón thời cơ lật đổ chính quyền đế quốc thực dân và tay sai , đi đến hoàn toàn giải phóng dân tộc”[13]. Tiếp đó, tháng 6/1941 quán triệt tinh thần nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ VIII , Công đoàn Việt Nam đã đổi tên từ “Hội Công nhân phản đế” thành “Hội Công nhân cứu quốc”. Về mặt tổ chức thì “Hội công nhân cứu quốc” có tính chất quần chúng rộng rãi hơn “Hội công nhân phản đế”. “Bất kỳ là công nhân hay cai ký , nói chung là những người làm công ăn lương trong xí nghiệp hay trong các ngành nghề tự do , miễn là muốn đánh Pháp , đuổi Nhật , cứu nước, cứu mình thoát khỏi cảnh nô lệ , đều có thể gia nhập Hội Công nhân cứu quốc” [14] . Tính chất quần chúng rộng rãi đó đã tạo điều kiện để chúng ta xây dựng, phát triển tổ chức công đoàn mạnh mẽ hơn trong giai đoạn vận động trực tiếp giành chính quyền.

       Tại Tuyên Quang dưới sự chỉ đạo trực tiếp của xứ uỷ Bắc Kỳ , phong trào cách mạng tiếp tục phát triển . Nhiều cơ sở của “Hội công nhân phản đế”“Hội công nhân cứu quốc” được được thành lập thay cho các nghiệp đoàn ái hữu . Đến tháng 6/1941 ở Tuyên Quang đã có gần 200 hội viên của Hội công nhân cứu quốc, tập trung ở khu vực thị xã , mỏ than , mỏ kẽm... Dưới ách thống trị, bóc lột, đàn áp của thực dân Pháp và phát xít Nhật, nhiều cuộc đấu tranh của công nhân , lao động đã nổ ra . Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của công nhân, lao động thị xã ngày 1/5, ngày kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga, đấu tranh của công nhân mỏ than đòi tăng lương, giảm giờ làm . Tháng 7/1941 để đáp ứng yêu cầu phong trào cách mạng của tỉnh nhà, xứ uỷ Bắc Kỳ đã thành lập Ban cán sự Đảng tỉnh Tuyên Quang. Ban cán sự Đảng gồm có 3 đồng chí : Đồng chí Trương Đình Dần (tức Điều) được xứ uỷ chỉ định làm bí thư , đồng chí Đào Văn Thại (tức Lê Đồng, tức Chính) và đồng chí Đỗ Thị Đức là uỷ viên Ban cán sự . Do điều kiện địa lý, chính trị lúc đó Ban cán sự Đảng còn chịu trách nhiệm xây dựng, chỉ đạo  phong trào cách mạng ở tỉnh Hà Giang và một số huyện tiếp giáp Tuyên Quang của tỉnh Phú Thọ .

         Sự ra đời của Ban Cán sự Đảng tỉnh Tuyên Quang đã có tầm quan trọng đối với phong trào cách mạng nói chung và phong trào công nhân , công đoàn nói riêng . Từ đây nhiều cho chi bộ của Đảng , nhiều cơ sở của Hội công nhân cứu quốc được thành lập đưa số lượng đoàn viên công đoàn được tăng lên . Đến cuối năm 1941 , Tuyên Quang đã trở thành một đầu mối quan trọng của phong trào cách mạng ở vùng núi phía Bắc, đồng thời là cầu nối với phong trào cách mạng, phong trào công nhân, công đoàn ở đồng bằng. Cho dù chưa thành lập được tổ chức “Hội Công nhân cứu quốc” trên phạm vi toàn tỉnh, nhưng các cơ sở “Hội Công nhân cứu quốc” hoạt động trong các nhà máy xí nghiệp, hầm mỏ, đồn điền đã góp phần quan trọng vào cuộc vận động cách mạng ở Tuyên Quang.

      Từ khi chi bộ mỏ than ra đời cho đến lúc Ban cán sự Đảng tỉnh Tuyên Quang được thành lập, phong trào công nhân, lao động Tuyên Quang đã trải qua thời kỳ gây dựng cơ sở, tập hợp và tổ chức lực lượng quần chúng trong công nhân, lao động. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ uỷ Bắc Kỳ và “Hội Công nhân phản đế”, “Hội Công nhân cứu quốc”, phong trào công nhân, lao động Tuyên Quang đã lớn mạnh, được thử thách và rèn luyện qua nhiều cuộc đấu tranh. Thành quả lớn nhất của phong trào cách mạng nói chung, phong trào công nhân, lao động Tuyên Quang nói riêng là đến năm 1941, tổ chức Đảng đã ra đời, trở thành hạt nhân lãnh đạo phong trào cách mạng tỉnh nhà. Thành quả này đã đặt nền móng cơ bản, vững chắc cho phong trào công nhân, lao động, góp phần quan trọng vào cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Tuyên Quang trong Cách mạng tháng 8/1945.

2. Trong những năm vận động trực tiếp giành chính quyền (1941-1945).

       Dưới ánh sáng nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ VIII (5/1941), sự chỉ đạo trực tiếp của xứ uỷ Bắc Kỳ và Ban cán sự Đảng tỉnh Tuyên Quang. Đội ngũ công nhân – lao động Tuyên Quang bước vào cuộc vận động Cách mạng giành chính quyền, nhằm “giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp-Nhật”[15].

     Tháng 10/1941 căn cứ vào sự lớn mạnh của phong trào công nhân,lao động Tuyên Quang, Ban cán sự Đảng Tuyên Quang đã thành lập Chi Hội Công nhân cứu quốc. Cùng với Chi Hội công nhân cứu quốc là các tổ chức cứu quốc của các đoàn thể như : Thanh niên cứu quốc; Phụ nữ cứu quốc; Nông dân cứu quốc; Nhi đồng cứu quốc … được thành lập và nằm trong Mặt trận Việt Minh tỉnh Tuyên Quang.

         Tổ chức Chi Hội Công nhân cứu quốc Tuyên Quang đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban cán sự Đảng , là thành viên nòng cốt của Mặt trận Việt Minh. Đến đầu năm 1942, Chi Hội công nhân cứu quốc Tuyên Quang đã có gần 600 hội viên, chủ yếu là công nhân , lao động ở các mỏ than , mỏ kẽm và khu vực thị xã. Đặc biệt trong số này đã có một số đoàn viên Chi Hội công nhân cứu quốc là người các dân tộc và một số là giáo dân thị xã. Sự lớn mạnh của Chi Hội công nhân cúu quốc cũng như các tổ chức đoàn thể khác, đã góp phần đưa hoạt động cứu quốc phát triển khắp nơi trong tỉnh. Dưới sự lãnh đạo của xứ uỷ Bắc Kỳ và trực tiếp là Ban cán sự Đảng tỉnh Tuyên Quang , lực lượng cứu quốc quân đã nhanh chóng xây dựng nhiều cơ sở trên một vùng rộng lớn từ Phú Lương , Đại Từ , Chợ Chu (Thái Nguyên) đến Sơn Dương , Yên Sơn , Chiêm Hoá (Tuyên Quang) lên Bản Mường , Bản Tạt (vùng Ba Bể) . Đặc biệt tại thị xã Tuyên Quang và một số vùng lân cận , chúng ta đã xây dựng được một số đơn vị tự vệ vũ trang trong các nhà máy , xí nghiệp như điện nước , mỏ than , giao thông …hỗ trợ cho các cuộc đấu tranh của công nhân , lao động cũng như chống lại chính sách đàn áp, khủng bố của kẻ thù .

          Cùng với phong trào đấu tranh của công nhân , lao động , đấu tranh của nông dân và đồng bào các dân tộc Tuyên Quang đã phát triển tại nhiều nơi trong tỉnh. Nhiều cuộc đấu tranh của quần chúng nông dân đã nổ ra tại các huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá, Na Hang, Hàm Yên … chống lại chính sách vơ vét bóc lột của thực dân Pháp và phát xít Nhật . Từ trong các cuộc đấu tranh Ban cán sự Đảng đã chỉ đạo việc xây dựng các đội tự vệ vũ trang trong tỉnh, góp phần làm cho Tuyên Quang trở thành trung tâm cách mạng của khu giải phóng Việt Bắc sau này. Phong trào đấu tranh của nông dân và đồng bào các dân tộc đã phối hợp với phong trào đấu tranh của công nhân, lao động tạo nên bước chuyển to lớn của phong trào cách mạng Tuyên Quang. Kết quả là đến giữa năm 1944 , các cơ sở cách mạng đã hình thành ở hầu khắp các vùng nông thôn , thị xã , thị trấn. Trọng tâm của phong trào cách mạng Tuyên Quang là chuẩn bị lực lượng cho khởi nghĩa giành chính quyền ; đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng vũ trang ; thành lập các ban Việt minh để lãnh đạo quần chúng đấu tranh .

        Cùng với phong trào chung, phong trào công nhân , lao động và hoạt động của Hội công nhân cứu quốc đã nhanh chóng phát triển. Đến tháng 9/1944 theo nghị quyết của Ban cán sự Đảng , chúng ta đã xây dựng được các đơn vị tự vệ là công nhân mà nòng cốt là các Đảng viên hoặc các đoàn viên Hội công nhân cứu quốc ở nhiều nhà máy, xí nghiệp, đồn điền . Chính các đơn vị tự vệ này đã tham gia giải cứu cuộc vượt ngục của 12 tù Chính trị , trong đó có đồng chí Song Hào, Tạ Xuân Thu, Nguyễn Công Bình, Trần Thế Môn, Lê Hiến Mai…. Bên cạnh đó nhiều cuộc đấu tranh của công nhân, lao động đã nổ ra như cuộc đấu tranh của hơn 100 công nhân điện nước vào tháng 11/1944, đòi kẻ thù thực hiện ba yêu sách :

  • Chống đàn áp , khủng bố .
  • Chống đuổi thợ .
  • Đòi tăng lương , giảm giờ làm .

     Cuộc đấu tranh đã kéo dài ba ngày và bọn chủ phải thực hiện các yêu sách của công nhân , lao động . Ngoài ra các cuộc đấu tranh của công nhân , lao động mỏ than , mỏ kẽm , giao thông, khai thác gỗ đã diễn ra liên tục, nhằm chống lại chính sách vơ vét, bóc lột của thực dân Pháp , phát xít Nhật .

 Tháng 11/1944 , Hội nghị Ban cán sự Đảng tỉnh họp đã họp và nhận định:

  • Phong trào đấu tranh cách mạng ở Tuyên Quang đã phát triển sang tính cách vũ trang , biểu hiện là sự xuất hiện các đơn vị tự vệ ở nông thôn, ở các bản làng và nhất là ở khu vực thị xã , nhà máy, xí nghiệp , hầm mỏ đồn điền .
  • Phong trào đấu tranh của nông dân , của đồng bào các dân tộc đã có sự phối hợp với phong trào của công nhân ở thị xã , thị trấn .
  • Hoạt động của các tổ chức quần chúng cách mạng như Hội Công nhân cứu quốc , Thanh niên cứu quốc , Nông dân cứu quốc đã thực sự làm nòng cốt cho phong trào Việt minh .

      Trên cơ sở đó hội nghị đã đề ra nhiều biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác công vận , nông vận và các giới đồng bào . Hội nghị chủ trương “gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa” , tăng cường công tác vận động trong thợ thuyền , nông dân , đồng bào các dân tộc ít người … xây dựng phân khu cách mạng ở các huyện.

          Cuối năm 1944, được sự chỉ đạo của Xứ uỷ Bắc Kỳ, Ban cán sự Đảng Tuyên Quang đã thành lập phân khu Nguyễn HuệB tại Trung Yên (huyện Sơn Dương). Sự ra đời của phân khu Nguyễn Huệ đã góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh của công nhân, lao động ở khu vực thị xã và nhiều nơi khác .

         Tháng 12/1944 theo chỉ thị của Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã được thành lập tại Nguyên Bình (Cao Bằng). Với nhiệm vụ “chính trị trọng hơn quân sự”, hoạt động của đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã mở đầu thời kỳ đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang-quân sự, bước vào cao trào kháng Nhật cứu nước . Riêng đối với Tuyên Quang một địa bàn chiến lược quan trọng, phong trào Cách mạng ở đây đã phát triển mạnh mẽ, nhiều cuộc đấu tranh chính trị , kinh tế vũ trang đã diễn ra … đưa Tuyên Quang trở thành một tỉnh quan trọng trong cuộc vận động giành chính quyền.

          Từ đầu năm 1945, do chính sách bóc lột, vơ vét tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp làm hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói. Tại Tuyên Quang nạn đói đã diễn ra, làm chết hàng ngàn người dân, nhất là ở khu vực thị xã và các trục lộ giao thông. Hai nhiệm vụ cấp bách lúc này đặt ra cho phong trào Cách mạng Tuyên Quang là chống đói cứu dân và xây dựng cơ sở Cách mạng chuẩn bị khởi nghĩa. Ngày 5/3/1945 quán triệt chỉ thị của Trung ương Đảng về “phá kho thóc của giặc Nhật, giải quyết nạn đói cho nhân dân”, Đảng bộ Tuyên Quang đã kịp thời chỉ đạo các đơn vị vũ trang ở khu vực thị xã phá kho thóc cấp phát cho dân nghèo . Tiếp đó công nhân , lao động ở mỏ than và một số nơi khác, đã tổ chức quyên góp lương thực cứu đói cho nhiều dân nghèo từ duới xuôi lên .

         Phong trào phá kho thóc cứu đói cho dân nghèo đã được mọi tầng lớp nhân dân nhất là công nhân , lao động tham gia sôi nổi. Thông qua phong trào này, Mặt trận Việt minh đã thu hút hàng vạn người tham gia. Các tổ chức cứu quốc trong Mặt trận Việt minh ngày càng lớn mạnh, đặc biệt là tổ chức Hội Công nhân cứu quốc. Hội công nhân cứu quốc đã có vai trò và ảnh hưởng lớn trong nhiều nhà máy, xí nghiệp ở khu vực thị xã Tuyên Quang và các vùng lân cận.

          Ngày 9/3/1845, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương , kẻ thù của Cách mạng Việt Nam lúc này là phát xít Nhật và bọn tay sai bán nước . Thời cơ giành chính quyền , giải phóng Tổ quốc , giải phóng dân tộc ngày càng chín muồi . Ngày 12/3/1945 , Trung ương Đảng ra chỉ thị : “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” , phát động cao trào kháng Nhật cứu nước , khởi nghĩa giành chính quyền từng phần , tiến tới tổng khởi nghĩa toàn quốc .

         Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, phong trào đấu tranh vũ trang Cách mạng đã bùng nổ khắp cả nước. Đặc biệt tại các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thái Nguyên, chúng ta đã giành chính quyền ở nhiều châu, phủ, xã, làng, bản. Riêng tại Tuyên Quang đến đầu tháng 5/1945 chính quyền Cách mạng đã thành lập lần lượt ở : Tự Do, Kháng Địch, Khánh Thiện, Xuân Trường, Hồng Thái, Toàn Thắng, Quyết Thằng và nhiều bản, làng ở quanh thị xã Tuyên Quang. Tại Sơn Dương, đã thành lập Trường Quân chính đào tạo cán bộ quân sự cho Cách mạng cả nước. Cuối tháng 5/1945, Ban cán sự Đảng Tuyên Quang đã thành lập đơn vị giải phóng quân đầu tiên, mà nòng cốt là các chiến sĩ xuất thân từ công nhân, lao động trong các mỏ than, mỏ kẽm và ở thị xã Tuyên Quang. Đơn vị giải phóng quân của tỉnh đã ngăn chặn nhiều cuộc lùng sục của quân Nhật góp phần bảo vệ căn cứ địa, sau đó tham gia giải phóng thị xã Tuyên Quang, Thái Nguyên và nhiều nơi khác .

       Sự lớn mạnh của phong trào Cách mạng Tuyên Quang là cơ sở để hội nghị quân sự Bắc Kỳ quyết định : Lấy châu Tự Do làm căn cứ địa , trọng tâm lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền phát động chiến tranh du kích, thống nhất các lực lượng vũ tranh Cách mạng cả nước .

      Cuối tháng 5/1945 lãnh tụ Hồ Chí Minh đã từ Cao Bằng chuyển về Tân Trào để trực tiếp chỉ đạo Cách mạng Việt Nam . Tại đây Người đã chỉ thị thành lập khu giải phóng Việt Bắc bao gồm các tỉnh Bắc Kạn, Cao Bằng , Lạng Sơn , Thái Nguyên , Tuyên Quang , Hà Giang . Từ đây Tân Trào và cả tỉnh Tuyên Quang đã trở thành Thủ đô giải phóng, đầu não lãnh đạo cao trào kháng Nhật cứu nước .

         Với sự ra đời của khu giải phóng Việt Bắc và Tuyên Quang trở thành Thủ đô Cách mạng Việt Nam đã làm cho phong trào công nhân, lao động ở đây phát triển nhanh chóng. Theo chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Xứ uỷ và Uỷ ban quân sự Bắc Kỳ, tháng 6/1945 ở Tuyên Quang đã xuất hiện một số cơ sở sản xuất vũ khí, thuốc men, quân trang quân dụng, in ấn báo chí cách mạng… đã tập hợp hàng ngàn công nhân , lao động được giác ngộ Cách mạng, có tay nghề cao ở khắp mọi miền về xây dựng chiến khu. Họ thực sự là bộ phận công nhân Cách mạng kiên cường được trưởng thành , được rèn luyện từ chiến khu Việt Bắc , góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền .

         Từ tháng 7/1945, phong trào công nhân, lao động ở Tuyên Quang đã có sự thay đổi về hình thức, nội dung hoạt động. Nhiệm vụ của công nhân, lao động lúc này là xây dựng nhiều xưởng quân giới, quốc phòng, sản xuất ra nhiều loại vũ khí để phục vụ cao trào kháng Nhật cứu nước. Hội Công nhân cứu quốc Bắc Kỳ đã chỉ đạo xây dựng cơ sở Hội Công nhân cứu quốc trong các xưởng quân giới. Theo hình thức “tổ-tam-tam” đến tháng 8/1945, chi hội công nhân cứu quốc đã có gần 900 hội viên , trong đó có đoàn viên là công nhân, lao động địa phương và các dân tộc ít người .

      Cũng trong tháng 7/1945, Trung ương Đảng đã quyết định thành lập Tỉnh uỷ lâm thời Tuyên Quang do đồng chí Tạ Xuân Thu làm Bí thư, Tỉnh uỷ lâm thời chịu trách nhiệm lãnh đạo mọi mặt ở vùng giải phóng, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở khu vực thị xã. Thời điểm này phong trào Cách mạng ở thị xã đã lên cao, hầu hết các cơ sở đều thành lập các tổ tự vệ bí mật, các cơ sở quần chúng Cách mạng như Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc. Cơ sở Cách mạng cũng đã giác ngộ một số nhân viên trong bộ máy chính quyền và ở một số đơn vị quân địch. Quân Nhật và chính quyền tay sai hầu như không còn kiểm soát được tình hình , tình thế Cách mạng đang ngày một đến gần. Tỉnh uỷ lâm thời đã chỉ thị cho các chi bộ Đảng , các cơ sở Cách mạng gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền . Hội công nhân cứu quốc ở nhiều nhà máy , xí nghiệp đã tổ chức cho công nhân , lao động chuẩn bị cờ, biểu ngữ, truyền đơn, các loại vũ khí chờ thời cơ đến . Ngày 13/8/1945, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng vô điều kiện quân Đồng Minh, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc đã ra lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền . Tiếp đó Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) đã nhận định : “ Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi…toàn dân đang sôi nổi đợi giờ khởi nghĩa giành chính quyền”[16] . Cũng tại Tân Trào ngày 16/8/1945, Quốc dân đại hội đã tiến hành hội nghị bầu ra Uỷ ban giải phóng dân tộc (Chính phủ lâm thời) do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Thay mặt nhân dân cả nướ , đại biểu các giới , các dân tộc ở Tuyên Quang đã nhiệt liệt chào mừng Chính phủ lâm thời. Ngày 16/8/1945 Uỷ ban khởi nghĩa Tuyên Quang đã được thành lập gồm các đồng chí Song Hào, Tạ Xuân Thu, Nguyễn Công Bình. Nhiệm vụ chủ yếu của ta lúc này là nhanh chóng khởi nghĩa giành chính quyềnở thị xã, mở đường cho các đơn vị giải phóng quân tiến về xuôi.

        Ngày 17/8/1945, phối hợp với các cơ sở cách mạng trong thị xã và sự hưởng ứng của hàng ngàn công nhân, lao động, Uỷ ban khởi nghĩa Tuyên Quang đã ra lệnh nổ súng giải phóng thị xã Tuyên Quang. Từ nhiều hướng các lực lượng vũ trang cách mạng tiến vào đánh chiếm trại lính bảo an, các cơ quan công sở của địch. Đồng thời các cơ sở cách mạng trong thị xã đã vận động công nhân, lao động vùng dậy làm chủ các nhà máy nước, nhà máy đèn, bưu điện và đã hoàn toàn làm chủ thị xã Tuyên Quang. Chính quyền tay sai của Nhật do Dương Thiệu Chính cầm đầu đã đầu hàng cách mạng. Quân đội Nhật ở Tuyên Quang sau đó đã giao nộp toàn bộ vũ khí, trang bị cho quân giải phóng, đổi lại chúng được an toàn rút khỏi Tuyên Quang về Hà Nội để đầu hàng lực lượng Đồng minh. Ngày 22/8/1945 cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Tuyên Quang đã hoàn toàn thắng lợi. Uỷ ban cách mạng tỉnh đã được thành lập do đồng chí Nguyễn Công Bình làm Chủ tịch. Một cuộc mít tinh chào mừng thắng lợi đã diễn ra với sự tham gia của hàng vạn công nhân, lao động và các tâng lớp nhân dân.

      Tuyên Quang là tỉnh tiến hành khởi nghĩa thắng lợi và giành được chính quyền sớm nhất trong cả nước. Là một tỉnh miền núi có địa hình chiến lược quan trọng vừa dễ phát triển về đồng bằng Bắc Bộ , lại vừa dễ phát triển lên cả một vùng rộng lớn phía Bắc của Tổ Quốc. Do đó Tuyên Quang đã được Đảng,  lãnh tụ Hồ Chí Minh chọn làm căn cứ địa, làm Thủ đô của Cách mạng Việt Nam trong những năm tháng vận động giành chính quyền. Nhân dân các dân tộc và đội ngũ công nhân, lao động Tuyên Quang có truyền thống đoàn kết , yêu nước tuyệt đối trung thành với Đảng, với Cách mạng góp phần quan trọng vào công cuộc vận động giành chính quyền.

          Đội ngũ công nhân, lao động và tổ chức Công đoàn Tuyên Quang tuy ít về số lượng, nhưng đã nhanh chóng lớn mạnh. Trong những năm tháng vận động giành chính quyền, phong trào công nhân, hoạt động công đoàn ở Tuyên Quang đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng căn cứ địa, củng cố vùng giải phóng, chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

         Ngày 13/8/1945, khi phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, thời cơ Cách mạng đã chín muồi, dưới sự lãnh đạo của uỷ ban khởi nghĩa, công nhân, lao động đã vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền ở thị xã và các nơi quan trọng, góp phần cùng với đồng bào các dân tộc Tuyên Quang giành chính quyền trọn vẹn trong toàn tỉnh. Cùng với nhân dân cả nước, đồng bào các dân tộc và công nhân, lao động Tuyên Quang đã tưng bừng chào đón một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Chương II : Phong trào công nhân, viên chức, lao động và Công đoàn Tuyên Quang trong kháng chiến chống thực dân Pháp

( 1945 – 1954 )

 

I . Phong trào công nhân, viên chức, lao động và Công đoàn Tuyên Quang trong giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945– 1949).

          1. Trong xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (9/1945-12/1946).      

          Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời mở ra một kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập - tự do gắn liền với CNXH. Tuy nhiên chính quyền Cách mạng đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách đe doạ vận mệnh dân tộc và thành quả của Cách mạng tháng Tám .

        Ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch mượn danh nghĩa quân Đồng minh vào tước vũ khí quân Nhật , nhưng dã tâm của chúng là “tiêu diệt Đảng ta , phá tan Việt minh , giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân , để lập một chính quyền phản động làm tay sai cho chúng”[17]. Theo đuôi chúng là bọn phản động người Việt, tập hợp trong hai tổ chức là Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách). Các tổ chức phản động này đã đánh chiếm nhiều thị xã như Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, Móng Cái… Chúng tập hợp tất cả các loại phản động trong giai cấp địa chủ, tư sản vào cái gọi là “Mặt trận Quốc gia”… quấy rối, phá hoại chính quyền Cách mạng .

        Ở Miền Nam từ ngày 6/9/1945, quân đội Anh đã đến Sài Gòn vừa giải giáp quân Nhật, vừa tạo điều kiện cho quân Pháp quay lại xâm lược Nam Bộ. Ngày 23/9/1945, quân Pháp được quân Anh yểm trợ đã nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai.

         Trên đất nước Việt Nam chưa bao giờ có nhiều kẻ thù xâm lược như vậy[18], bọn phản động trong nước lại càng lộ mặt làm tay sai cho đế quốc, chống lại Tổ quốc, chống lại dân tộc - đồng bào .

       Nền kinh tế nước nhà vốn đã nghèo nàn , lạc hậu lại bị Pháp , Nhật vơ vét, xác xơ , bị chiến tranh và thiên tai tàn phá . Sản xuất nông nghiệp đình đốn , Bắc Bộ có hơn 50% đất nông nghiệp bị bỏ hoang , hệ thống đê điều bị tàn phá. Nạn đói năm 1945 làm hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói chưa chấm dứt lại đe doạ hoành hành vào đầu năm 1946 . Sản xuất công nghiệp bị suy thoái , nhiều nhà máy , xí nghiệp , hầm mỏ bị đóng cửa khiến cho hàng vạn công nhân , lao động bị thất nghiệp .

       Tuy nhiên Cách mạng Việt Nam còn có những thuận lợi lớn như Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng tình hình, thấy rõ những khó khăn, chỗ mạnh cơ bản của cách mạng, nhận rõ điểm yếu và lợi thế của kẻ thù. Trên cơ sở đó, Đảng đã sáng suốt lái con thuyền cách mạng vượt qua mọi gềnh thác, vững bước tiến lên .

      Giai cấp công nhân Việt Nam, chỗ dựa chủ yếu của chế độ mới có gần 55 vạn người, ở Bắc Bộ khoảng 25 vạn, Nam Bộ gần 20 vạn và Trung Bộ khoảng 10 vạn. Tổ chức “Hội Công nhân cứu quốc” lúc này có gần 25 vạn đoàn viên, dưới sự lãnh đạo của Đảng “Hội công nhân cứu quốc” đã được xây dựng và từng bước củng cố, chuẩn bị tiền đề cho việc thành lập Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Giai cấp công nhân và Hội công nhân cứu quốc lớn mạnh đã thành nhân tố góp phần quan trọng vào nhiệm vụ xây dựng , bảo vệ Đảng, chính quyền và củng cố tổ chức Công đoàn.

        Tại Tuyên Quang, sau khi quân Nhật rút đi thì ngày 25/8/1945, quân đoàn 52 của Tưởng Giới Thạch đã kéo tới. Chúng tìm mọi cách phá hoại chính quyền Cách mạng, dùng đồng Quan kim mất giá vơ vét thóc gạo, phá hoại kinh tế và đời sống của nhân dân. Bên cạnh đó chúng còn lập ra tổ chức “Nam Dương Hoa Kiều nhập hội” nhằm lôi kéo , tập hợp bọn phản động. Cùng với quân Tưởng , các tổ chức phản động “Việt Quốc”, “Việt Cách” cũng ráo riết hoạt động , các nhóm thổ phỉ nổi lên hoạt động ở một số vùng thuộc các huyện Na Hang , Chiêm Hoá , Sơn Dương ….

        Cùng với các địa phương khác Tuyên Quang đang phải đối mặt với nạn đói trầm trọng, nhiều nơi đồng bào bị đứt bữa, tỷ lệ người không biết chữ nhiều hơn các nơi khác, nhiều tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan, cờ bạc, rượu chè, thuốc phiện còn phổ biến; chính quyền cách mạng vừa thành lập còn non yếu; đội ngũ cán bộ đảng viên còn ít và chưa có kinh nghiệm quản lý chính quyền, quản lý xã hội. Các tổ chức đoàn thể như Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội …  thiếu nhiều cán bộ có năng lực vận động quần chúng .

        Đội ngũ công nhân, lao động Tuyên Quang tập trung chủ yếu ở khu vực thị xã, mỏ than, mỏ kẽm, giao thông vận tải và một số đồn điền. Ngoài ra còn có công nhân, lao động ở một số nhà máy, xí nghiệp quân giới đóng tại Chiêm Hoá, Sơn Dương… Nhìn chung đội ngũ công nhân, lao động Tuyên Quang có tinh thần yêu nước cao, trình độ giác ngộ dân tộc và giai cấp ngày càng được phát huy. Đến tháng 10/1945, đội ngũ công nhân, lao động Tuyên Quang có gần 1 vạn người, tập trung phần lớn ở thị xã, một số nhà máy, xí nghiệp.

          Cơ sở Hội công nhân cứu quốc đã được thành lập ở nhiều nhà máy, xí nghiệp như mỏ than, mỏ kẽm, các xí nghiệp quân giới và một số cơ sở kinh tế, văn hoá trong thị xã. Tuy nhiên việc thành lập Hội công nhân cứu quốc tỉnh Tuyên Quang vẫn còn gặp nhiều khó khăn .

          Tháng 9/1945, Hội nghị Đảng bộ Tuyên Quang đã họp và đề ra những nhiệm vụ cần kíp để xây dựng và củng cố chính quyền Cách mạng, trong đó chỉ rõ “Cần tăng cường lực lượng công nhân , mở rộng hoạt động của Hội Công nhân cứu quốc nhất là ở khu vực thị xã”. Đảng bộ tỉnh đã thành lập Ban theo dõi, chỉ đạo công tác quần chúng và đồng bào các dân tộc do đồng chí Tạ Xuân Thu phụ trách.

          Tháng 10/1945, Hội nghị đại biểu Hội Công nhân cứu quốc Việt Nam (khu vực phía Bắc) đã họp tại Hà Nội. Đoàn đại biểu Tuyên Quang (bao gồm cả Yên Bái, Việt Trì) có 10 đồng chí đã có nhiều ý kiến đóng góp vào thành công của Hội nghị. Hội nghị kêu gọi giai cấp công nhân, lao động, đoàn kết, thống nhất “hãy đặt Tổ quốc lên trên tất cả. Quốc gia có độc lập , dân tộc có được hoàn toàn giải phóng thì quyền lợi giai cấp mới được đảm bảo”[19]. Hội nghị đã bầu đồng chí Trần Danh Tuyên làm Chủ tịch và các đồng chí Lê Thanh Nghị, Trần Bảo Phó chủ tịch Hội Công nhân cứu quốc Bắc Bộ. Hội nghị cũng yêu cầu đại biểu các tỉnh, khẩn trương xây dựng, kiện toàn tổ chức Công nhân cứu quốc ở địa phương, chuẩn bị cho việc thành lập Tổng Liên Đoàn lao động Việt Nam.

      Sau hội nghị này, phong trào công nhân cũng như hoạt động của Hội Công nhân cứu quốc Tuyên Quang có nhiều chuyển biến. Đó là số lượng hội viên viên được phát triển, chủ yếu là công nhân ở các nhà máy, xí nghiệp và một bộ phận đội ngũ cán bộ công chức trong hệ thống chính quyền, đoàn thể, giao thông vận tải, quân giới …

       Sự lớn mạnh bước đầu của phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang đã góp phần xây dựng, bảo vệ chính quyền Cách mạng và ổn định cuộc sống mới . Các hành động khiêu khích, phá hoại của quân Tưởng bị hạn chế, các đảng phái  phản động tay sai của chúng bị cô lập và nhiều tên phản động đã bị trừng trị. Ở thị xã Tuyên Quang, công nhân, lao động và các chi Hội công nhân cứu quốc đã tham gia bảo vệ trật tự trị an, bảo vệ chính quyền cơ sở , ổn định đời sống nhân dân. Bên cạnh đó công nhân, lao động đã tích cực tham gia phong trào yêu nước do chủ tịch Hồ Chí Minh phát động bằng việc đẩy mạnh sản xuất, tăng gia thực hành tiết kiệm, giúp đỡ dân nghèo. Phong trào “thi đua kháng chiến kiến quốc” đã được đa số công nhân, lao động và đoàn viên Hội công nhân cứu quốc tích cực tham gia. Kết quả là tình hình kinh tế của Tuyên Quang đã tương đối ổn định, hầu hết các nhà máy, xí nghiệp, cơ sở kinh tế, văn hóa đã đi vào hoạt động, “sản xuất nông nghiệp được khôi phục và phát triển hơn trước”[20] . Những thành tựu này càng tăng cường sức mạnh của phong trào công nhân , công đoàn Tuyên Quang trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền Cách mạng .

       Ngày 6/1/1946 cùng với nhân dân các dân tộc, công nhân, lao động Tuyên Quang tích cực tham gia bầu cử Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Đồng thời Tuyên Quang còn tổ chức bầu cử chính quyền các cấp, nhằm kiện toàn một bước hệ thống chính quyền Cách mạng. Những sự kiện này có ý nghĩa to lớn và thực sự là một cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc nhằm củng cố và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.

       Nhằm tạo điều kiện cho việc chỉ đạo, quản lý các đơn vị hành chính, Tuyên Quang đã điều chỉnh lại địa giới thành 5 huyện và 1 thị xã. Việc xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhằm bảo vệ chính quyền, trấn áp các tổ chức phản động được đẩy mạnh. Đến tháng 4/1946 toàn tỉnh đã có 3 chi đội vệ quốc đoàn, một đại đội cảnh vệ, trực tiếp bảo vệ các cơ quan lãnh đạo của tỉnh . Mỗi huyện đều có một trung đội du kích tập trung , mỗi xã và mỗi nhà máy xí nghiệp đều có một trung đội tự vệ . Riêng  thị xã Tuyên Quang có một đại đội tự vệ thành phần chủ yếu là công nhân , lao động . Lực lượng vũ trang của Tuyên Quang đã ngăn chặn, hạn chế mọi hành động phá hoại quấy rối của quân Tưởng , đập tan cuộc bạo động của thổ phỉ tại huyện Lục Yên . Đến năm 1946 quân Tưởng phải rút khỏi Tuyên Quang , theo đó là bọn phản động Việt Quốc - Việt Cách và mọi tàn dư phản động khác hoặc bỏ chạy theo quân Tưởng, hoặc bị ta phá tan từ trong trứng nước. Cùng với đồng bào các dân tộc , công nhân , lao động tích cực tham gia phong trào“tuần lễ vàng”, tuần lễ “mua công trái ủng hộ nền tài chính quốc gia”. Trong phong trào "tuần lễ vàng" các giới đồng báo ở Tuyên Quang đã  quyên góp được 130 lạng vàng, 7.500 lạng bạc và nhiều triệu đồng ủng hộ Chính phủ. Trong phong trào bình dân học vụ, công nhân, lao động gương mẫu đi học, tham gia các hoạt động diệt giặc dốt, vận động hàng vạn người vào các lớp bình dân học vụ, góp phần thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Những người đã biết chữ hãy dạy những người chưa biết chữ … Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết”.  Thông qua công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền, công nhân, viên chức, lao động và tổ chức Hội Công nhân cứu nước Tuyên Quang từng bước lớn mạnh. Đến giữa tháng 6/1946 đội ngũ công nhân, lao động Tuyên Quang đã xấp xỉ gần 1,3 vạn người, trong đó số lượng đoàn viên Hội công nhân cứu quốc có hơn 2.000 người, đây thực sự là nòng cốt của phong trào “thi đua kiến quốc” trong công nhân, lao động Tuyên Quang .

       Để tăng cường công tác vận động công nhân, lao động cũng như xây dựng Hội Công nhân cứu quốc, tháng 6/1946 Tỉnh uỷ đã thành lập Ban cán sự Đảng Công vận do đồng chí Lê Quang Tuệ làm Trưởng ban, đồng chí Trần Văn Tuynh làm Phó ban và đồng chí Vũ Bá Ngần làm Uỷ viên. Ban cán sự Đảng Công vận chuẩn bị mọi công việc để tiến tới thành lập Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tuyên Quang. Cũng từ tháng 7/1946, Ban cán sự Đảng Công vận đã thành lập nhiều công đoàn ở các ngành quân giới, tài chính..., kết nạp được hàng trăm đoàn viên là công nhân, lao động .

         Dưới sự chỉ đạo của Ban cán sự Đảng Công vận, phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã có nhiều chuyển biến trong những tháng cuối năm 1946. Sự chuyển biến này đã góp phần quan trọng vào công tác dân vận của Tỉnh uỷ cũng như chuẩn bị cơ sở việc thành lập tổ chức công đoàn tỉnh Tuyên Quang.

         Ngày 20/7/1946, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chính thức ra mắt tại nhà hát lớn Hà Nội. Đây là sự kiện rất quan trọng đối với giai cấp công nhân Việt Nam, tạo điều kiện để giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn phát huy vai trò, chức năng trong chế độ mới .

         Tháng 10/1946 để tăng cường năng lực giao thông vận tải thuỷ giữa Tuyên Quang với thủ đô Hà Nội và các tỉnh. Uỷ ban hành chính Tuyên Quang đã quyết định thành lập Đoàn vận tải sông Lô – Tuyên Quang, nòng cốt là công nhân và đoàn viên Hội Công nhân cứu quốc thuộc Ban cán sự Đảng Công vận. Đồng chí Vũ Phi Hùng, cán bộ Mặt trận Tổ quốc tỉnh được cử sang phụ trách đoàn vận tải, đồng chí Đoàn Đình Khiêm cán bộ của Ban cán sự Đảng Công vận được cử sang làm Thư ký đoàn vận tải sông Lô. Chỉ trong khoảng một thời gian ngắn đoàn thuyền vận tải sông Lô đã phát triển lên gần 140 công nhân và có 9 thuyền vận tải. Tổ chức công đoàn ở đây do Ban cán sự Đảng công vận trực tiếp chỉ đạo.

          Cuối năm 1946, khi âm mưu xâm lược của thực dân Pháp đối với nước ta ngày càng lộ rõ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng căn cứ địa kháng chiến tại chiến khu Việt Bắc, trung tâm là tỉnh Tuyên Quang. Chúng ta đã bí mật đưa một số cán bộ kỹ thuật và nhiều loại máy móc, nguyên vật liệu về xây dựng một số nhà máy xí nghiệp quân giới tại núi rừng Việt Bắc. Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính và các tổ chức đoàn thế ở Tuyên Quang đã tích cực tham gia những công việc quan trọng này. Theo sự chỉ đạo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và sự giúp đỡ của Tỉnh uỷ Tuyên Quang, Ban cán sự Đảng Công vận đã cử nhiều cán bộ Công đoàn tham gia xây dựng nhiều nhà máy, xí nghiệp quốc phòng, xây dựng tổ chức Công đoàn. Đến tháng 10/1946 trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, đặc biệt là tại Chiêm Hoá, Sơn Dương, Yên Bình đã có nhiều nhà máy, xí nghiệp quân giới được xây dựng với hàng ngàn công nhân, kĩ sư và cán bộ quản lý.

       Tháng 11/1946, Quốc hội khoá I đã thông qua Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, chính thức xác nhận quyền làm chủ và nghĩa vụ của nhân dân. Thay mặt cho đồng bào các giới ở Tuyên Quang, hai đại biểu Quốc hội là: Ma Văn Linh, Tạ Xuân Thu đã bày tỏ sự ủng hộ đối với Quốc hội, đối với Chính phủ Cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.

       Trong những tháng cuối năm 1946, phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang đã có những bước phát triển quan trọng, tổ chức Công đoàn được thành lập ở một số ngành, lực lượng đoàn viên được phát triển, cán bộ được tăng cường. Đến tháng 12/1946, tổ chức Công đoàn ở Tuyên Quang đã có số lượng đoàn viên hơn 2.000 người, sinh hoạt trong nhiều công đoàn ngành và nhiều công đoàn cấp cơ sở. Ban cán sự Đảng công vận do đồng chí Lê Quang Tuệ (tức Hiệp) làm trưởng ban đã có nhiều đóng góp quan trọng cho phong trào công nhân, lao động, góp phần củng cố mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường khối liên minh công - nông và đồng bào các dân tộc .

      Từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946 dù còn gặp nhiều khó khăn thử thách , nhưng dưới sự lãnh đạo của tỉnh Đảng bộ, sự giúp đỡ của chính quyền và các đoàn thể, đội ngũ công nhân lao động từng bước phát triển, thể hiện được vai trò chức năng của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền , xây dựng chế độ mới. Trong thời gian đó , phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn Tuyên Quang đã hoàn thành tốt những nhiệm vụ đặt ra, đặc biệt là nhiệm vụ diệt giặc đói, giặc dốt và bảo vệ an toàn chính trị, ổn định đời sống nhân dân. Được sự chỉ đạo sát sao của Tỉnh uỷ, Ban cán sự Đảng công vận, Tuyên Quang đã bước đầu làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền, tổ chức và động viên công nhân, lao động tham gia mọi hoạt động kháng chiến cứu quốc, góp phần đưa phong trào Cách mạng của tỉnh nhà đi lên và chuẩn bị mọi điều kiện để thành lập Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang vào đầu năm 1947. Qua đó góp phần củng cố, xây dựng Tuyên Quang thành hậu phương vững chắc, chuẩn bị cho toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp sau này.

2. Trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ( 1947 – 1949 ):

      Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp đã bùng nổ và ngày 20/12/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến

      Tiếp đó ngày 22/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”, thể hiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân là một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân , toàn diện trên các mặt trận quân sự , chính trị , kinh tế , văn hóa , và trường kỳ tự lực cánh sinh .

      Dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay trong ba tháng đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt nam đã góp phần hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được Đảng, Chính phủ đề ra. Với vị trí , vai trò của mình, công nhân, lao động ở các thành phố, các trung tâm công nghiệp đã tổ chức tháo dỡ, di chuyển hàng chục vạn tấn máy móc, nguyên vật liệu của nhiều nhà máy về vùng hậu phương, chiến khu an toàn[21]. Chỉ trong một thời gian ngắn, bằng tinh thần tự lực cánh sinh, đội ngũ công nhân, kỹ sư đã lắp ráp, đưa hàng trăm nhà máy, công xưởng vào sản xuất, phục vụ kịp thời cho cuộc chiến đấu. Riêng Cơ quan Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tổ chức sơ tán và xây dựng ba xưởng sản xuất vũ  khí (TK1, TK2 , TK3) có hơn 500 công nhân, cán bộ kỹ thuật ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang .

     Đầu năm 1947, Trung ương Đảng đã ra nghị quyết về công tác công vận trong tình hình mới. Bản nghị quyết đã định hướng cho phong trào công nhân, hoạt động Công đoàn trong suốt cả thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Nghị quyết đã chỉ rõ vị trí, vai trò và nhiệm vụ của công nhân, lao động ở các vùng cũng như những việc cần kíp của tổ chức Công đoàn trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp .

      Là một tỉnh có địa thế hiểm yếu, gần với đồng bằng Bắc Bộ và Thủ đô Hà Nội, Tuyên Quang tiếp tục là địa bàn chiến lược của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là thủ đô, căn cứ địa của cả nước trong những năm kháng chiến chống Pháp xâm lược .

     Nhiệm vụ đặt ra cho đồng bào các dân tộc Tuyên Quang, cũng như đội ngũ công nhân, lao động ở đây là tiếp tục phát huy sức mạnh của hậu phương kháng chiến, xây dựng và bảo vệ khu an toàn của Trung ương, bao gồm các cơ quan Đảng, Chính phủ, đoàn thể và nhiều cơ sở kinh tế, văn hoá quan trọng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đặc biệt là bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, chính phủ, những linh hồn của cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam .

     Đầu năm 1947, công cuộc sơ tán, di chuyển của chúng ta cơ bản đã kết thúc. Hầu hết các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ, mặt trận, các đoàn thể và hàng chục vạn nhân dân được sơ tán về vùng tự do, vùng Việt Băc và tại Tuyên Quang. Đến tháng 4/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở lại Sơn Dương, Người đã chủ trì Hội nghị trung ương Đảng tại làng Xảo (Hợp Thành - Sơn Dương), đề ra những vấn đề chiến lược của Cách mạng nước ta. Cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh là các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt…  đã ở và làm việc tại Tuyên Quang. Do đó, việc bảo vệ Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh một cách an toàn là nhiệm vụ quan trọng của quân, dân Tuyên Quang trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp .

      Tuyên Quang là nơi làm việc của nhiều cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, bệnh viện, trường học. Đến tháng 4/1946 trên địa bàn Tuyên Quang đã có các bộ Tài chính, bộ Giáo dục , bộ Y tế , đài phát thanh tiếng nói Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, các trường Đại học Y, trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn, trường kỹ thuật canh nông, trường kỹ thuật giao thông công chánh, trường kỹ thuật vừa học vừa làm… các nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, dược phẩm, báo chí, xuất bản, in ấn tài liệu và nhiều bệnh viện. Đặc biệt ở Tuyên Quang có nhiều xưởng sản xuất cơ khí, đạn dược, thuốc men phục vụ chiến đấu và đời sống của nhân dân.

      Như vậy kể từ khi cuộc kháng chiến bùng nổ, Tuyên Quang đã trở thành Thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, đầu não của cuộc kháng chiến trường kỳ. Tuyên Quang là nơi tập trung khá đông một đội ngũ công nhân , cán bộ kỹ thuật , kỹ sư , trí thức của nhiều ngành khác nhau , nhất là ngành quân giới nòng cốt của nền công nghiệp quốc phòng nước ta . Đội ngũ này được sơ tán từ Hà Nội, từ mọi miền đất nước về đây. Có thể nói sau khi chúng ta làm thất bại âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp thì Tuyên Quang đã là nơi tập trung nhiều lực lượng quan trọng của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Riêng về lực lượng công nhân thì đến tháng 4/1947, Tuyên Quang đã có hàng vạn công nhân, viên chức và một phần trong số đó là cán bộ - công chức thuộc các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội và các đoàn thể …

Sự phát triển của đội ngũ công nhân, viên chức, lao động, Tuyên Quang trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến đã tạo điều kiện cho hoạt động Công đoàn tỉnh nhà phát triển, nhất là việc thành lập cơ quan liên hiệp Công đoàn.       Đáp ứng yêu cầu đó, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Tuyên Quang chủ trương tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên các địa bàn và mọi đoàn thể. Đầu năm 1947, Thường vụ Tỉnh uỷ đã kiện toàn tổ chức Đảng ở các huyện và đoàn thể quần chúng. Đến giữa năm 1947, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã quyết định thành lập Liên hiệp Công đoàn lâm thời tỉnh Tuyên Quang. Đồng chí Lê Quang Tuệ,  Trưởng ban cán sự Đảng công vận được cử làm thư ký, đồng chí Trần Văn Tuynh làm phó thư ký và đồng chí Vũ Bá Ngần làm uỷ viên thường trực. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, lãnh đạo lâm thời Liên hiệp Công đoàn Tuyên Quang đã xác định nhiệm vụ của phong trào công nhân, công đoàn là :

  • Đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc , trọng tâm là “Thi đua kháng chiến kiến quốc” , góp phần xây dựng và củng cố hậu phương , bảo vệ an toàn các cơ quan trung ương .
  • Góp phần ổn định sản xuất của các nhà máy xí nghiệp , nhất là các xưởng sản xuất vũ khí .
  • Xây dựng và củng cố tổ chức Công đoàn Tuyên Quang , phát triển lực lượng đoàn viên ở cơ sở .
  • Phát triển lực lượng tự vệ , chuẩn bị chiến đấu chống quân Pháp đánh lên Việt Bắc .

      Việc thành lập Liên hiệp công đoàn lâm thời Tuyên Quang có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu một bước quan trọng phong trào công nhân, viên chức lao động. Từ đây phong trào công nhân, lao động Tuyên Quang đã dưới sự lãnh đạo của ban thường vụ Liên hiệp công đoàn lâm thời. Qua đó sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với phong trào công nhân và hoạt động công đoàn được kịp thời và toàn diện hơn.

     Tháng 3/1947 Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã mở hội nghị về tổ chức cho Công đoàn các tỉnh miền Bắc. Lúc này đã thành lập 10 liên khu kháng chiến (đơn vị hành chính) trực thuộc trung ương. Do đó Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã kiện toàn tổ chức Công đoàn theo hệ thống hành chính của nước ta để thuận tiện cho việc hoạt động. Quán triệt chủ trương của Tổng liên đoàn, từ tháng 5/1947, tổ chức Công đoàn Tuyên Quang đã có sự thay đổi như có thêm một số Công đoàn ở các huyện và thị xã , thành lập một số Công đoàn ngành như Công đoàn ngành vận tải, Công đoàn ngành quân giới , Công đoàn các nông trường tăng gia – sản xuất cũng theo sự chỉ đạo của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, công đoàn các nhà máy, xí nghiệp của Trung ương hiện đóng trên đất Tuyên Quang cũng sinh hoạt và chịu sự lãnh đạo của Liên hiệp công đoàn tỉnh nhà.

     Để tăng cường thêm lực lượng cho Liên hiệp công đoàn Công đoàn Tuyên Quang, tháng 7/1947 Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (lúc này đóng tại Chiêm Hoá) đã chuyển nhiều Công đoàn cơ sở về Liên hiệp Công đoàn . Đó là Công đoàn các nhà máy in Tô Hiệu , đúc tiền ,… đặc biệt là Công đoàn nhà máy TK1 do đồng chí Ngô Gia Khảm và Ngô Gia Tường phụ trách . Ngoài ra Tổng liên đoàn đã đưa nhiều cán bộ về làm việc tại Liên hiệp Công đoàn và một số công đoàn ngành .

       Nhờ vậy mà đến tháng 8 /1947 , hoạt động Công đoàn ở Tuyên Quang đã dần dần ổn định, góp phần vào việc ổn định hậu phương, xây dựng vững chắc thủ đô kháng chiến. Trong những ngày này cùng với đồng bào các dân tộc, công nhân, lao động Tuyên Quang đã đóng góp hàng chục vạn ngày công, hàng triệu cây tre, nứa, gỗ lạt để xây dựng nhà ở cho các cơ quan trung uơng, kho tàng, nhà xưởng cho các cơ sở sản xuất. Các huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá… đã trở thành vùng an toàn khu rộng lớn. Hành lang giao thông liên lạc giữa Tuyên Quang với cả nước đã hình thành và đảm bảo bí mật tuyệt đối, phục vụ kịp thời sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác Hồ. Đến thời điểm cùng với lực lượng công an và cảnh vệ, công nhân, lao động và đồng bào các dân tộc Tuyên Quang đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn Trung ương Đảng, Chính phủ, Bác Hồ.

      Tháng 9/1947 Trung ương Đảng đã ra chỉ thị “Bô-La nói gì , ta phải làm gì?” vạch trần ý đồ xâm lược của thực dân Pháp , khẳng đinh một lần nữa lập trường kiên quyết chiến đấu giành độc lập và thống nhất thật sự. Tích cực chuẩn bị để đánh bại chiến dịch quân sự Thu Đông của Thực dân Pháp. Lúc này Thực dân Pháp đang tập trung 20000 quân với đầy đủ vũ khí, phương tiện chiến tranh để mở cuộc tiến công lớn lên Việt Bắc, trung tâm là các tỉnh Tuyên Quang, Bắc Kạn hòng “đánh vào sau lưng quân ta, chụp cơ quan đầu não của kháng chiến”[22] .

       Đầu tháng 10/1947, Ban thường vụ tỉnh uỷ Tuyên Quang ra chỉ thị cho cơ quan Quân, Dân, Chính, Đảng và toàn thể nhân dân chuẩn bị đánh địch . Nhiệm vụ quan trọng lúc này là nhanh chóng tổ chức tiêu thổ kháng chiến, vườn không nhà trống, chuẩn bị các điểm sơ tán , tích trữ lương thực và nhu yếu phẩm. Kho tàng của Chính phủ và các cơ quan Trung ương đều được phân tán, gửi vào nhà dân. Quán triệt nghị quyết hội nghị quân sự Trung ương lần thứ V, công nhân, lao động đã triệt để thực hiện nhiệm vụ “tiêu thổ kháng chiến”. Ban chỉ đạo tiêu thổ kháng chiến của Liên hiệp Công đoàn do đồng chí Lê Quang Tuệ phụ trách, đã chỉ đạo Công đoàn các cơ sở động viên công nhân, lao động, công chức phá nhà cửa, xây dựng chướng ngại vật, sơ tán các công sở, xí nghiệp làm cho quân thù khi đến “không có chỗ mà ở, đi tới đâu cũng vườn không nhà trống”. Trong những ngày này công nhân, lao động và công đoàn Tuyên Quang đã góp phần huy động 307.000 ngày công, phá 41.018 m2 nhà công sở và nhà dân ( chủ yếu ở khu vực thị xã), 100 chiếc cầu, 22 km đường quốc lộ và 61 km từ Phan Lương đến Bình Ca. Công nhân, lao động đoàn vận tải sông Lô đã góp phần xây dựng 2 kè ngăn, tổ chức cắm nhiều bãi chông, mìn ở ven sông Lô thuộc các huyện Sơn Dương[23] nhằm ngăn cản quân thù .

      Dưới sự chỉ đạo và giúp đỡ của cơ quan quân sự , Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã tổ chức nhiều đội tự vệ ở các nhà máy , xí nghiệp cơ sở . Đó là các đơn vị tự vệ của các đoàn vận tải sông Lô , tự vệ ở xưởng quân giới H52, xưởng K72 … góp phần tăng cường lực lượng bán vũ trang ở tỉnh nhà. Tháng 10/1947 , Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã tổ chức thành lập được 30 điểm tự vệ ở các nhà máy, xí nghiệp, góp phần xây dựng lực lượng tự vệ ở các nhà máy, xí nghiệp có 12.120 người và 4000 du kích ở vùng nông thôn . Những chiến sĩ tự vệ là công nhân, lao động tuy trình độ chưa cao, trang bị thô sơ, thiếu thốn nhưng được sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, của Công đoàn cơ sở và được sự giúp đỡ của nhân dân là một bộ phận trong “lực lượng của toàn dân tộc , là một lực lượng vô địch , là một bức tường sắt của Tổ quốc . Vô luận địch nhân hung bạo như thế nào , hễ địch nào cũng phải tan rã”[24] .

     Giữa tháng 10/1947 thực dân Pháp tập trung 2 vạn quân tấn công lên Việt Bắc , nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Địch đã cho quân nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn , Chợ Mới , Chợ Đồn đồng thời binh đoàn bộ binh do Đạt tá Bô-Phê chỉ huy từ Lạng Sơn lên Cao Bằng , Bắc Kạn vây căn cứ địa Việt Bắc từ phía Đông và phía Bắc . Lực lượng chính của địch gồm quân thuỷ, quân bộ theo sông Hồng, sông Lô lên Tuyên Quang bao vây Việt Bắc, “rồi chúng cụp ô lại, khép chặt vòng vây, dưới đánh lên, trên đánh xuống, và nhảy dù xuống những nơi nghi có cơ quan Đảng và Chính phủ đế lùng bắt, phá cho được đầu não của cuộc kháng chiến. Sau đó chúng sẽ bình định các nơi khác”[25]. Ngày 15/10/1947 Trung ương Đảng ra chỉ thị phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp , nêu rõ nhiệm vụ của chúng ta lúc này là : “phải làm cho địch thiệt hại nặng nề để không gượng dậy được sau chiến dịch mùa đông này”[26].

     Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chỉ thị của Trung ương Đảng, Đảng bộ vầ đồng bào các dân tộc Tuyên Quang đã xác định nhiệm vụ quan trọng là phải đánh thắng địch, bảo vệ an toàn căn cứ địa Trung ương góp phần làm thất bại chiến dịch Thu Đông của thực dân Pháp. Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, ngoài lực lượng chủ lực của Trung ương, đã có lực lượng là dân quân, tự vệ, du kích thuộc các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, làng bản tham gia đánh địch khi chúng tiến vào khu vực thị xã .

     Trước ngày địch tấn công lên Tuyên Quang , thường vụ Liên hiệp Công đoàn Tuyên Quang đã chỉ đạo các cơ sở công đoàn chuẩn bị phối hợp chiến đấu . Một bộ phận công nhân, lao động được huy động tham gia phục vụ hậu cần, tổ chức cứu thương, tiếp tế vũ khí cho các đơn vị bộ đội chủ lực, dân quân tự vệ. Một bộ phận công nhân, lao động lo tổ chức sơ tán ở thị xã Tuyên Quang triệt để thực hiện kế hoạch tiêu thổ kháng chiến. Công nhân, lao động đoàn vận tải sông Lô đã di chuyến hàng ngàn tấn máy móc, nguyên vật liệu ra khỏi thị xã về nơi cất giấu an toàn. Lực lượng tự vệ ở các nhà máy, xí nghiệp dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ Đảng và Công đoàn vừa làm tốt công tác sơ tán, vừa sẵn sàng chiến đấu.

     Chiến dịch Thu Đông 1947 đã diễn ra từ ngày 8/10/1947 đến 22/12/1947 thuộc nhiều tỉnh ở chiến khu Việt Bắc , trung tâm là Tuyên Quang và Bắc Kạn.     Trong chiến dịch này , công nhân , lao động và tổ chức công đoàn đã có những đóng góp vào thắng lợi chung của đồng bào các dân tộc Tuyên Quang . Trước hết công nhân , lao động đã làm tốt nhiệm vụ “tiêu thổ kháng chiến”, làm cho quân địch khi vào thị xã Tuyên Quang chỉ là nơi hoang vắng , đổ nát. Các đội tự vệ của công nhân , lao động đã liên tục đánh địch quanh khu vực thị xã tiêu diệt hàng trăm tên . Khi quân địch co cụm lại , lực lượng tự vệ đã phối hợp với bộ đội trung đoàn 112 đánh địch trên con đường từ Hà Giang về . Đặc biệt khi quân Pháp rút chạy khỏi thị xã Tuyên Quang , thì tự vệ Thành-Tuyên đã đặt mìn địa lôi tại km số 7, tiêu diệt hơn 100 tên làm bị thương nhiều tên khác , thu một đại liên, một súng cối và nhiều quân trang quân dụng . Trên dòng sông Lô anh hùng, công nhân, lao động đã phối hợp với bộ đội chủ lực chặn đánh quân thuỷ bộ của giặc Pháp, tiêu diệt hàng trăm tên địch và bắn chìm nhiều tàu chiến của quân Pháp. Hàng trăm công nhân, lao động đã tham gia vận chuyển vũ khí, thuốc men, lương thực, xây dựng trận địa phục kích trên sông Lô. Ngày 10/11/194, đoàn tàu Pháp rút chạy từ Chiêm Hoá tới ngã ba sông Lô-Gấm đã bị quân ta chặn đánh tiêu diệt 300 tên, bắn chìm ba tàu chiến.

      Cuối tháng 11/1947 quân địch phải rút khỏi thị xã Tuyên Quang , chúng liên tục bị tự vệ của ta phục kích , bắn tỉa . Với các loại vũ khí thô sơ , các đơn vị tự vệ là công nhân , lao động Thành Tuyên đã làm cho địch “ăn không ngon , ngủ không yên” . Đã có hàng trăm tên Pháp bị chết tại các địa điểm Bình Ca , Sơn Dương , Đầm Hồng , Khe Lau . Quân địch đã mệnh danh Tuyên Quang là “cái nghĩa địa khổng lồ”[27].

      Cuối tháng 12/1947 , chiến dịch tấn công lên Việt Bắc của quân xâm lược Pháp đã hoàn toàn bị thất bại . Trong chiến dịch này cùng với đồng bào các dân tộc, công nhân, lao động Tuyên Quang đã góp phần chiến đấu 48 trận , tiêu diệt hơn 1000 tên địch, bắt sống hàng trăm tên, thu nhiều vũ khí quân trang, quân dụng, bảo vệ an toàn căn cứ địa kháng chiến, an toàn khu của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong cuộc diễu binh mừng chiến thắng được tổ chức tại thị xã Tuyên Quang, mảnh đất còn ghi lại dấu ấn chiến công của các đơn vị tự vệ Thành-Tuyên, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã nói rõ : “ Ba năm trước đây , tỉnh Tuyên Quang là thủ đô lâm thời của vùng giải phóng mới xây dựng. Ngày nay Tuyên Quang cùng Phủ Đoan , Bình Ca, Khe Lau trên bờ sông Lô đã anh dũng chiến thắng thuỷ quân và lục quân của thực dân Pháp”[28]. Sau chiến dịch này , nhiều tập thể và cá nhân đã được khen thưởng vì thành tích chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Đó là tập thể công nhân, lao động đoàn vận tải Sông Lô , đội tự vệ Thành-Tuyên …,Ban lãnh đạo Liên hiệp công đoàn như các đồng chí Lê Quang Tuệ , Vũ Bá Ngần , Trần Văn Tuynh và Đoàn Đình Khiêm .

      Ngay sau khi quân Pháp rút khỏi thị xã Tuyên Quang , công nhân , lao động đã nhanh chóng ổn định đời sống sinh hoạt , tiếp tục lao động sản xuất . Ban thường vụ Liên hiệp Công đoàn đã có chỉ thị cho Công đoàn các cơ sở thực hiện ngay các nhiệm vụ :

  • Tổ chức lại đời sống nơi ăn,chốn ở cho công nhân lao động và gia đình.
  • Đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất , riêng đối với ngành giao thông vận tải thì khôi phục lại hệ thống cầu đường .
  • Nhanh chóng khôi phục lại cơ sở hạ tầng ở thị xã Tuyên Quang và các nơi khác .
  • Tiếp tục tổ chức , vận động công nhân , lao động và các cơ sở Công đoàn đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc , góp phần tăng cường sức mạnh căn cứ địa kháng chiến .

       Để tăng cường sức mạnh của tổ chức Công đoàn . Ban thường vụ Liên hiệp Công đoàn chủ trương sắp xếp , kiện toàn và thành lập một số tổ chức Công đoàn trực thuộc Liên hiệp Công đoàn tỉnh . Tăng cường lực lượng cán bộ cho Công đoàn cấp huyện , cấp ngành . Trước mắt Ban thường vụ Liên hiệp Công đoàn đề nghị tỉnh uỷ bổ sung một số đồng chí vào ban chấp hành lâm thời của tỉnh ; điều một số đồng chí từ tỉnh uỷ và các đoàn thể khác sang hoạt động Công đoàn . Kết quả là đến tháng 5/1947 đã có 16 đồng chí được tổ chức tỉnh uỷ điều động , bổ sung cho tổ chức Công đoàn các cấp .

     Tháng 8/1948 nhằm tăng cường sức mạnh cho tổ chức Công đoàn Tuyên Quang nói chung và Công đoàn vận tải nói riêng . Tỉnh uỷ và Uỷ ban hành chính Tuyên Quang đã quyết định cử các đồng chí :

  • Phạm Đình Dực – chánh văn phòng uỷ ban .
  • Lê Quang Tuệ  – thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh .
  • Trần Văn Tuynh –  thường vụ Liên hiệp Công đoàn tỉnh .
  • Vũ Khắc Hùng – thư ký Công đoàn vận tải sông Lô từ tháng 6/1946.

      Các đồng chí trên và một số đồng chí khác đứng ra kiện toàn và tăng cường sức mạnh cho đoàn vận tải sông Lô. Đoàn vận tải sông Lô phải là lực lượng quan trọng trên tuyến vận tải đường thuỷ Tuyên Quang, đội ngũ công nhân và tổ chức Công đoàn ở đây thuộc sự chỉ đạo của Liên hiệp Công đoàn Tuyên Quang. Trong buổi làm việc với ban thường vụ Liên hiệp Công đoàn , các đồng chí Vũ Thanh Hoà (bí thư tỉnh uỷ), Nguyễn Công Bình (chủ tịch uỷ ban hành chính tỉnh) đã nói rõ yêu cầu, mục đích của việc xây dựng đoàn vận tải sông Lô ngày một lớn mạnh là nhiệm vụ quan trọng của Liên hiệp Công đoàn tỉnh Tuyên Quang.

    Cùng với việc xây dựng và phát triển đoàn vận tải Sông Lô , Ban thường vụ Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã chỉ đạo việc thành lập tổ chức Công đoàn . Cuối tháng 9/1948 Công đoàn vận tải sông Lô – Tuyên Quang đã chính thức ra mắt, đồng chí Vũ Khắc Hùng , uỷ viên chấp hành Liên hiệp Công đoàn tỉnh được cử làm thư ký. Theo quyết định của tổ chức tỉnh uỷ , công đoàn vận tải sông Lô – Tuyên Quang trực thuộc Liên hiệp Công đoàn Tuyên Quang và được chia làm 5 phân đoàn :

  • Phân đoàn Tuyên Quang có 65 đoàn viên .
  • Phân đoàn Hoà Bình có 85 đoàn viên .
  • Phân đoàn Việt Trì có 55 đoàn viên .
  • Phân đoàn Soi Châu có 45 đoàn viên .
  • Phân đoàn Bình Ca có 55 đoàn viên .

      Công đoàn vận tải sông Lô – Tuyên Quang được giao nhiệm vụ vận chuyển vũ khí , lương thực , hàng hoá tiêu dùng từ tỉnh này qua tỉnh khác theo Bến Then – Vĩnh Yên; Bến An Đạo – Phú Thọ; Bến Yên Lục – Yên Châu – Yên Bái từ Tuyên Quang lên Hà Giang . Trong hai năm 1948 - 1949, cán bộ, đoàn viên công đoàn vận tải sông Lô đã vận chuyển gần 3 vạn tấn vũ khí, lương thực phục vụ chiến đấu, đời sống của nhân dân và các cơ quan trung ương đóng trên địa bàn các tỉnh Tuyên Quang , Hà Giang , Yên Bái , Phú Thọ , Thái Nguyên.

      Có thể nói hoạt động của công đoàn vận tải sông Lô – Tuyên Quang đã góp phần rất lớn vào hoạt động của tổ chức công đoàn Tuyên Quang sau chiến thắng Thu Đông 1947 . Những hoạt động này góp phần vào nhiệm vụ xây dựng , củng cố hậu phương kháng chiến ngày càng vững mạnh .

      Tháng 6/1948 tỉnh uỷ Tuyên Quang đã quán triệt nhiệm vụ của quân, dân lúc này là : xây dựng hậu phương vững mạnh, phát triển sản xuất, phát triển kinh tế , đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng chiến lâu dài . Phải thực hiện được mục tiêu “ăn no , mặc ấm , đánh khoẻ”, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, tự cung tự cấp về mọi mặt , động viên cán bộ , nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm là yêu nước. Chủ trương của tỉnh uỷ Tuyên Quang đã đem lại nhiều thay đổi trong sản xuất, nhất là trong sản xuất nông nghiệp. Đến hết năm 1948, diện tích canh tác của Tuyên Quang đã có gần 35.103 mẫu, sản lượng lương thực đạt gần 28.500.000 kg [29]. Đây là một cố gắng rất lớn của quân dân Tuyên Quang trong hoàn cảnh thiếu thốn về mọi mặt, điều kiện canh tác còn thô sơ .

     Tháng 2/1949 Thường vụ tỉnh uỷ đã điều đồng chí Lê Như Thảo, tỉnh uỷ viên về làm thư ký kiêm trưởng ban cán sự Đảng Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang thay cho đồng chí Lê Quang Tuệ nhận công tác khác. Ngoài ra tỉnh còn bổ sung các đồng chí Trần Đức Việt, Trần Văn Miêu vào ban thường vụ và uỷ viên Ban cán sự Đảng Liên hiệp công đoàn tỉnh nhà.

     Quán triệt chủ trương của tỉnh uỷ về nhiệm vụ phát triển kinh tế , thực hành tiết kiệm , cải thiện đời sống . Thường vụ Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã chỉ đạo cho công đoàn các cấp tổ chức, động viên công nhân, lao động và mọi đoàn viên công đoàn đẩy mạnh tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống. Công đoàn các nhà máy, xí nghiệp, cơ quan đã đề ra một số chỉ tiêu , định mức cho cán bộ, công nhân, viên chức thực hiện. Đến đầu năm 1949, phong trào tăng gia sản xuất, chăn nuôi, cải thiện đời sống, giúp đỡ một phần cho ngân sách Nhà nước đã đạt kết quả tốt. Theo thống kê thì trong năm 1949, sản lượng lương thực do công nhân, lao động và cán bộ, đoàn viên công đoàn tăng gia đạt gần 3.500.000 kg, chăn nuôi 2500 con bò và hàng vạn gia cầm các loại. Thành tích này đã góp phần cải thiện đời sống của công nhân, lao động và cung cấp một phần lương thực, thực phẩm cho bộ đội.

       Tháng 6 /1949 quán triệt nghị quyết đại hội Đảng bộ Tuyên Quang là “xây dựng nền kinh tế kháng chiến tự cấp , tự túc trong tỉnh là một vấn đề chủ yếu trong giai đoạn kháng chiến quyết liệt hiện tại . Để chống lại sự phong toả của địch , để nêu cao đời sống cho nhân dân , chủ trương trước hết của ta là tự cấp, tự túc về ăn mặc, về nguyên liệu và sản phẩm cần thiết cho cuộc kháng chiến”[30]. Ban thường vụ Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã họp và phát động phong trào thi đua kháng chiến, kiến quốc trong công nhân, lao động theo các nội dung :

  • Góp phần phát triển các ngành nông nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, giải quyết công ăn việc làm, thu nhập cho người lao động.
  • Tổ chức bao vậy, phá hoại kinh tế địch, phát triển kinh tế kháng chiến .
  • Động viên công nhân, lao động và cán bộ đoàn viên công đoàn thực hành tiết kiệm, ai có điều kiện thì mua công trái ủng hộ nền tài chính Quốc gia.
  • Vận động mọi tầng lớp nhân dân tiêu tiền do ngân hàng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà phát hành .
  • Các cấp Công đoàn trong tỉnh phải củng cố, chấn chỉnh phong trào thi đua ái quốc, kịp thời khắc phục tư tưởng chủ quan, khinh địch, chây lười trong công tác .

       Phong trào này đã lôi kéo đông đảo cán bộ công nhân, lao động sôi nổi tham gia. Các cơ quan chuyên môn của uỷ ban hành chính tỉnh như: Ban canh nông, Ban kinh tế - tài chính, ty thuỷ lợi, Ban thi đua, Ty giáo dục đi đầu trong phong trào thi đua ái quốc. Nhiều cơ sơ Công đoàn đã động viên , tổ chức được 100% cán bộ, công nhân, lao động tham gia. Công nhân, lao động đã góp phần cùng với nhân dân trong tỉnh, góp vào quỹ kháng chiến gần 1,5 triệu đồng, mua 120.000 công phiếu kháng chiến. Năm 1949, theo lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ công nhân, lao động Tuyên Quang đã góp phần mua 550.400 đồng công phiếu, góp vào hũ gạo kháng chiến 32.229 kg lương thực.

       Thông qua phong trào thi đua ái quốc , Liên hiệp công đoàn tỉnh đã thực hiện một bước việc xây dựng tổ chức Công đoàn vững. Do yêu cầu của việc tập hợp công nhân , lao động vận tải xe thồ , Liên hiệp công đoàn đã cử đồng chí Nguyễn Thuỷ đi vận động tổ chức thành lập công đoàn vận tải xe thồ . Lực lượng chủ yếu là những công nhân , lao động xe đạp thồ ở thị xã Tuyên Quang và của đoàn vận tải sông Lô–Tuyên Quang . Kết quả là tháng 7/1949 , công đoàn vận tải xe thồ có gần 100 đoàn viên đã được thành lập , đồng chí Bùi Đức Cận được cử làm thư ký. Một thời gian sau, Liên hiệp công đoàn tỉnh đã sáp nhập công đoàn vận tải xe đạp thồ thành một bộ phận của công đoàn vận tải sông Lô – Tuyên Quang . Việc này đã góp phần tăng cường sức mạnh của đoàn vận tải sông Lô – Tuyên Quang , phát huy ưu thế giữa các lực lượng vận tải với nhau .

       Giữa năm 1949 , thực dân Pháp đã huy động gần 1000 lính Âu, Phi và lính nguỵ mở cuộc tấn công mang tên “Cuộc hành quân Pômôn”, tiến vào Tuyên Quang nhằm cắt đứt con đường tiếp tế và tiêu diệt một phần chủ lực của ta. Trước âm mưu của địch, Liên hiệp công đoàn tỉnh đã chỉ đạo công đoàn cơ sở, tổ chức cho cán bộ, công nhân, lao động và đoàn viên công đoàn tiến hành cuộc tiêu thổ kháng chiến lần thứ hai, đồng thời tích cực tham gia phục vụ chiến đấu và trực tiếp chiến đấu. Nhiều đơn vị tự vệ ở các nhà máy , xí nghiệp đã chiến đấu chống địch khi chúng tiến vào thị xã , tại dốc Bô Lăn và gềnh Quyết gây cho địch nhiều thiệt hại .

      Cuộc hành quân Pô môn của thực dân Pháp đã gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của quân, dân Tuyên Quang. Chúng đã bị tiêu diệt hàng trăm tên và mất nhiều loại vũ khí, trang bị. Cuối cùng quân Pháp đã phải rút chạy khỏi thị xã Tuyên Quang, trên đường rút chạy chúng liên tục bị các lực lượng tự về và bộ đội chủ lực Tuyên Quang chặn đánh. Trong chiến dịch này phối hợp với quân chủ lực, công nhân, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã góp phần vào chiến công tiêu diệt 200 tên địch, bắt sống 30 tên và đánh 25 trận. Chiến thắng này đã rèn luyện đội ngũ công nhân, lao động và khẳng định sự trưởng thành nhanh chóng của tổ chức công đoàn Tuyên Quang trong bốn năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp.

        Sau khi đánh bại cuộc hành quân Pô-môn, liên hiệp công đoàn Tuyên Quang chủ trương đẩy mạnh việc phát triển đoàn viên và xây dựng, kiện toàn tổ chức công đoàn cơ sỏ. Tháng 7/1949, tổ chức công đoàn đã được thành lập ở hầu hết các xí nghiệp của bộ Quốc phòng, của các cơ quan Trung ương đóng tại Tuyên Quang . Kết quả này đã giúp đỡ rất nhiều cho phong trào công nhân, lao động và hoạt động công đoàn địa phương. Nội dung và hình thức hoạt động của công đoàn Tuyên Quang ngày càng bám sát được nhiêm vụ “kháng chiến kiến quốc”.

       Tháng 8/1949 , lập thành tích chào mừng đại hội công đoàn Việt Nam lần thứ nhất I sắp khai mạc tại chiến khu Việt Bắc . Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã phát động phong trào thi đua yêu nước “gây cơ sở, phá kỉ lục”, phong trào thi đua “phá kỷ lục của Ngô Văn Phú”…trong công nhân , viên chức lao động. Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã thành lập Ban thi đua từ tỉnh xuống nhà máy xí nghiệp. Hầu hết công đoàn cơ sở đều thành lập Ban thi đua do giám đốc làm trưởng ban, thư ký công đoàn làm phó ban .Các ban thi đua cơ sở lập ra chương trình thi đua, vận động các đoàn viên tham gia và tổng kết rút kinh nghiệp chỉ đạo phong trào.

      Kết quả của phong trào thi đua này đưa năng suất lao động của công nhân , lao động trong các nhà máy , xí nghiệp tăng từ 20% đến 25 %, nhất là ở các xưởng quân giới . Bên cạnh đó , việc đẩy mạnh tăng gia sản xuất lương thực, thực phẩm cải thiện đời sống cho công nhân , lao động đã có nhiều kết quả. Đến tháng 11/1949 , Tuyên Quang đã không còn nạn đói trong kỳ giáp hạt, đời sống của công nhân, viên chức đã được cải thiện . Từ chỗ mỗi năm thiếu ăn từ 3 đến 4 tháng thì đến năm 1950 , Tuyên Quang đã giải quyết cơ bản vấn đề lương thực và nhu yếu phẩm cho nhân dân [31].Không những thế , kinh tế Tuyên Quang đã bắt đầu ổn định và phát triển , vừa giải quyết được các yêu cầu cấp bách tại chỗ mà còn đóng góp ngày một nhiều hơn cho kháng chiến .

      Tháng 11/1949, Tổng liên đoàn lao động Việt nam đã chủ trương đưa một số cán bộ đi tăng cường cho phong trào công nhân, lao động các tỉnh. Qua đó chuẩn bị việc tổ chức Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ I . Đối với phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Tuyên Quang , Tổng liên đoàn luôn có sự quan tâm chỉ đạo sát sao , Ban thường vụ Tổng liên đoàn đã cử một đoàn cán bộ do đồng chí Nguyễn Việt Thao (uỷ viên ban chấp hành Tổng liên đoàn) về tăng cường cho Liên hiệp công đoàn tỉnh Tuyên Quang . Cùng với ban thường vụ liên hiệp công đoàn , đoàn cán bộ tổng liên đoàn đã xây dựng chương trình, kế hoạch và nội dung hoạt động của công đoàn Tuyên Quang . Trong đó nhiệm vụ quan trọng nhất là phát động phong trào thi đua lao động sản xuất trong công nhân, lao động, góp phần xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh.

       Với vị trí , vai trò là Thủ đô của kháng chiến, đội ngũ công nhân, lao động và đoàn viên công đoàn Tuyên Quang đã góp phần làm thất bại các chiến dịch quân sự của thực dân Pháp , bảo vệ an toàn tuyệt đối cho Trung ương Đảng, chính phủ và Bác Hồ . Bên cạnh đó là thực hiện tốt nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế Tuyên Quang vượt qua mọi khó khăn, đảm bảo đời sống của công nhân, lao động và của đồng bào các dân tộc. Trải qua bốn năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, được sự lãnh đạo của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, của Tỉnh uỷ và sự giúp đỡ của uỷ ban hành chính tỉnh, đội ngũ công nhân, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang không ngừng phát triển. Trên đất Tuyên Quang lúc này có hàng vạn công nhân, viên chức, lao động thuộc các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, đoàn thể và nhiều bệnh viện, trường học, nhà máy, xí nghiệp, công binh xưởng. Đây thực sự là lực lượng quan trọng của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam trong việc xây dựng , phát triển ngành quân giới – ngành công nghiệp quốc phòng của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà . Lực lượng này cũng góp phần rất lớn vào những thành công của phong trào công nhân , lao động và hoạt động công đoàn Tuyên Quang trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp .

      Tuy nhiên trong những năm đầu của cuộc khàng chiến chống thực dân Pháp, phong trào công nhân và hoạt động công đoàn của Tuyên Quang còn bộc lộ một số hạn chế như : Phong trào thi đua trong công nhân , lao động chưa thật sự sâu rộng và mang hiệu quả cao ; công tác tổ chức của Liên hiệp công đoàn còn chậm , chưa làm tốt công tác kiện toàn và tổ chức đại hội công đoàn tỉnh kịp thời ; chưa chú trọng xây dựng và phát triển cán bộ và đoàn viên thuộc các dân tộc ít người …. Những hạn chế này ít nhiều đã ảnh hưởng đến hoạt động công đoàn trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

       Cùng với đồng bào các dân tộc , đội ngũ công nhân , lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã góp phần làm nên kỳ tích : đánh thắng hai cuộc tấn công lớn của địch , bảo vệ an toàn Trung ương Đảng, chính phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh , giữ vững thủ đô kháng chiến . Đánh giặc đi đôi với xây dựng đội ngũ công nhân và tổ chức công đoàn Tuyên Quang góp phần chuẩn bị mọi điều kiện đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp sang giai đoạn mới .

III . Phong trào công nhân , công đoàn Tuyên Quang trong giai đoạn tổng phản công (1950 – 1954):

        Bước vào năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân giành được nhiều thắng lợi to lớn, tạo nên nhiều chuyển biến quan trọng về chính trị, quân sự, ngoại giao. Trải qua 4 năm chiến đấu, lực lượng kháng chiến của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã dần tạo lập được thế cân bằng chiến lược so với kẻ thù. Chúng ta từ thế phải phòng ngự , chuyển sang cầm cự, tổng phản công và giành thế chủ động trên toàn chiến trường , nhất là ở khu vực Bắc bộ .

       Thắng lợi về chính trị, quân sự đã nâng cao uy tín của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trên trường Quốc tế . Kết quả là tháng 1/1950, chính phủ các nước Trung Quốc, Liên Xô, Triều Tiên, Tiệp Khắc, Cộng hoà dân chủ Đức, Rumani, Anbani, Bungari, Mông Cổ, Ba Lan, Hungari … đã lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta . Tháng 1/1950 hội nghị toàn quốc lần thứ III của Đảng đã tiến hành tại Chiêm Hoá (Tuyên Quang), hội nghị đã khẳng định “ta càng đánh , chính quyền nhân dân càng thêm vững chắc , tinh thần quân và dân càng cao , các lực lượng hoà bình và dân chủ thế giới càng ủng hộ nhiệt liệt”[32]. Từ đó , Đảng ta xác định nhiệm vụ trước mắt của cuộc kháng chiến là : xây dựng bộ đội chủ lực , hết sức tăng cường bộ đội địa phương và phong trào dân quân du kích . Tăng cường thế và lực của hậu phương – vùng tự do , đẩy mạnh đấu tranh chính trị vũ trang ở vùng địch tạm chiếm , khẩu hậu của chúng ta lúc này là “Tất cả để giành chiến thắng” . Hội nghị đã chỉ ra : “Lực lượng cách mạng Việt Nam bao gồm giai cấp công nhân , giai cấp nông dân… động lực của cách mạng Việt Nam bao gồm giai cấp công nhân , giai cấp nông dân. Lực lượng lãnh đạo Cách mạnh Việt Nam là giai cấp công nhân”[33] . Do đó phải đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc trong mọi tầng lớp nhân dân .

       Nghị quyết của hội nghị cũng chỉ ra con đường xây dựng , phát triển phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Việt Nam trong giai đoạn mới của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp . Bước vào năm 1950 , giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam có nhiều chuyển biến về số lượng và chất lượng, tổ chức công đoàn Việt Nam có hơn 25 vạn đoàn viên , trong đó số đoàn viên ở vùng tự do là gần 20 vạn . Hệ thống tổ chức của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam có 51 liên hiệp công đoàn cấp tỉnh và cấp khu ; 2 công đoàn thống nhất trên toàn quốc là công đoàn sản xuất vũ khí Việt Nam và công đoàn vô tuyến điện, 2 công đoàn đặc khu Hòn Gai - Quảng Yên . Tổng liên đoàn lao động Việt Nam có 1012 công đoàn cấp cơ sở trong toàn quốc và hơn 2000 cán bộ , trong đó có 910 người là cán bộ chuyên trách . Đội ngũ cán bộ công đoàn này đang ngày đêm hoạt động trong phong trào công nhân , xây dựng tổ chức công đoàn ngày một vững mạnh. Tổ chức công đoàn các cấp bước đầu được xây dựng và củng cố, tuy nhiên “tổ chức công đoàn chưa bao gồm được hết các tầng lớp lao động trí thức và chân tay , chưa thực sự hoạt động ráo riết cho mặt trận …. Trình độ của các cán bộ công đoàn còn tương đối thấp so với nhiệm vụ công tác nặng nề . Lối làm việc của các cán bộ vẫn chưa được hợp lý , còn vướng nhiều tàn tích thủ công nghiệp và hẹp hòi…”[34].

      Trong hoàn cảnh phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Việt Nam có nhiều chuyển biến thì đại hội toàn quốc công đoàn Việt Nam lần thứ I được tiến hành từ ngày 1 đến ngày 15/1/1950 tại xã Cao vân , huyện Đại Từ , tỉnh Thái Nguyên . Đại hội có 200 đại biểu đại diện hơn 25 vạn đoàn viên công đoàn cả nước . Đại hội công đoàn Việt Nam lần thứ nhất đã tổng kết phong trào công nhân và hoạt động công đoàn , đề ra nhiệm vụ cụ thể của giai cấp công nhân và công đoàn các cấp trong giai đoạn mới . Đại hội đã nhận được thư chúc mừng của Chủ tịch Hồ Chí Minh , Người đã căn dặn “Theo ý tôi , những việc chính mà đại hội phải làm là :

  • Tổ chức và huấn luyện toàn thể công nhân trong vùng tự do và trong vùng tạm bị chiếm .
  • Lãnh đạo công nhân xung phong thi đua ái quốc và chuẩn bị tổng phản công .
  • Đi đến tổ chức toàn thể lao động trí óc cũng như lao động chân tay .
  • Giúp đỡ người dân về mọi mặt”[35].

      Đại hội Toàn quốc Công đoàn Việt Nam đã kết thúc sau nửa tháng làm việc, đại hội đã bầu ban chấp hành mới gồm 21 đồng chí . Đồng chí Hoàng Quốc Việt-uỷ viên thường vụ Trung ương Đảng được bầu làm chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam , đồng chí Trần Danh Tuyên được bầu làm tổng thư ký Tổng liên đoàn lao động Việt Nam .

      Những phát triển mới của Cách mạng Việt Nam nói chung , phong trào công nhân và hoạt động công đoàn cả nước nói riêng đã tạo điều kiện cho phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn Tuyên Quang phát triển. Vấn đề mới đặt ra cho nhân dân và đội ngũ công nhân , lao động Tuyên Quang là : phải xây dựng, tổ chức hậu phương để đảm bảo cho việc chi viện sức người , sức của cho tiền tuyến , thực hiện tốt khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến , tất cả cho đánh thắng”, đồng thời phải bồi dưỡng nâng cao sức dân, đảm bảo cuộc sống cho mọi người. Nhất là đời sống của hàng vạn cán bộ , công nhân, lao động ở một tỉnh là Thủ đô Cách mạng của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà .

      Là một tỉnh nằm trong liên khu Việt Bắc , nơi tập trung các cơ quan đầu não của trung ương và nơi làm việc của chủ tịch Hồ Chí Minh . Tuyên Quang lúc này có những bước thuận lợi rất cơ bản là : Đảng bộ và nhân dân được thử thách, rèn luyện và trưởng thành sau 4 năm kháng chiến ; được sự chỉ đạo trực tiếp của trung ương Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh , sự giúp đỡ của các cấp các bộ , các ban lãnh đạo ngành đoàn thể và nhất là có được một đội ngũ công nhân–lao động hàng vạn người đang sống và làm việc tại căn cứ địa “Thủ đô gió ngàn” . Tuy nhiên Tuyên Quang vẫn còn phải đối mặt với những khó khăn như: kinh tế còn thấp kém , nạn đói và các hủ tục vẫn còn ở nhiều nơi , cán bộ Đảng , chính quyền và đoàn thể còn thiếu và yếu về trình độ. Ngoài ra Tuyên Quang còn là căn cứ địa , là an toàn khu của Đảng , Chính phủ và của chủ tịch Hồ Chí Minh nên vẫn có thể bị kẻ thù tập kích , ném bom, bắn phá , tiến hành các hoạt động gián điệp , biệt kích, gây rối hậu phương của ta .

      Tháng 2/1950 , hội nghị ban chấp hành Đảng bộ Tuyên Quang đã họp và xác định 2 nhiệm vụ của Tuyên Quang là :

  • Đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội để nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân , các dân tộc nói chung và của công nhân – lao động nói riêng . Tiếp tục hoàn thành việc cung cấp vật lực , tài lực , nhân lực cho kháng chiến .
  • Khẩn trương xây dựng , phát triển lực lượng quân sự địa phương gồm có bộ đội và dân quân - du kích , tự vệ các nhà máy , xí nghiệp . Lực lượng này đủ mạnh đánh địch xâm phạm vùng tự do , bảo vệ an toàn khu , bảo về hậu phương và khi cần chi viện đắc lực, có hiệu quả cho các chiến dịch của Trung ương .

      Để làm hai nhiệm vụ này , Đảng bộ và nhân dân Tuyên Quang phải tập trung giải quyết các vấn đề như : nâng cao sức mạnh lãnh đạo của Đảng , quản lý của chính quyền , sức mạnh của các tổ chức đoàn thể quần chúng ; ổn định tình hình an ninh – chính trị , tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc trong tỉnh . Để làm những việc này là phải dựa vào đội ngũ công nhân , lao động , dựa vào sự ủng hộ về vật chất và tinh thần của trung ương và của cả nước .

     Bước vào năm 1950 , đội ngũ công nhân , lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã có nhiều chuyển biến về số lượng , chất lượng và cả về tổ chức. Từ đầu năm 1950 , theo chủ trương của trung ương và của tỉnh Tuyên Quang , nhiều nhà máy , xí nghiệp được xây dựng, nhất là các nhà máy , xí nghiệp thuộc bộ quốc phòng . Chủ trương này đã đưa lực lượng công nhân , lao động ở Tuyên Quang phát triển khá nhanh . Đến cuối năm 1950 , trên địa bàn Tuyên Quang đã có hàng trăm nhà máy , xí nghiệp được thành lập và đi vào sản xuất . Đó là các nhà máy , xí nghiệp sản xuất giấy , thuốc nổ , súng đạn , thuốc men . Ngoài ra còn có thêm một số cơ quan hành chính , sự nghiệp của trung ương và địa phương như bệnh viện , trường học , các cơ quan báo chí , in ấn … Do đó đến cuối năm 1950 trên địa bàn Tuyên Quang đã gần 6 vạn cán bộ, công nhân, trí thức thuộc các cơ quan trung ương và địa phương. Có thể nói đây là lực lượng quý báu , trí tuệ và tinh lực của giai cấp công nhân, của cả dân tộc Việt Nam .

      Nhằm xây dựng và phát triên tổ chức công đoàn sau đại hội công đoàn Việt Nam lần thứ II , Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã chủ trương kiện toàn và củng cố các cơ sở công đoàn theo cơ cấu ngành dọc và địa bàn hành chính. Việc này cũng phù hợp với đặc điểm Tuyên Quang là một tỉnh hoàn toàn là vùng tự do, nơi tập trung đông công nhân, lao động và đoàn viên công đoàn. Tháng 1/1950 được sự chỉ đạo, giúp đỡ của ban tổ chức Tổng liên đoàn, liên hiệp công đoàn đã kiện toàn ban chấp hành liên hiệp công đoàn Tuyên Quang. Đồng chí Trần Đức Việt được cử làm Thư ký Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang. Quán triệt sự chỉ đạo của tỉnh uỷ, Ban thường vụ lâm thời Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang chuẩn bị mọi việc để tổ chức Đại hội công đoàn tỉnh lần thứ I. Tổ chức của công đoàn Tuyên Quang có công đoàn cơ sở trực thuộc bao gồm :

  • Công đoàn cơ khí .
  • Công đoàn quân giới.
  • Công đoàn ngành dược, ngành y.
  • Công đoàn ngành in.
  • Công đoàn giấy.
  • Công đoàn nông trường sông Lô - trại thí nghiệm.
  • Công đoàn canh nông.
  • Công đoàn bưu điện
  • Công đoàn ngân hàng – tài chính.
  • Công đoàn mậu dịch quốc doanh.
  • Công đoàn giáo dục.
  • Công đoàn công an.
  • Công đoàn hành chính.
  • Công đoàn xây dựng cầu đường.
  • Công đoàn vận tải thuỷ Sông Lô.
  • Công đoàn vận tải bộ (xe trâu, xe thồ).
  • Công đoàn thợ rèn (Tân Lập).
  • Công đoàn thợ mộc.

       Dưới công đoàn cơ sở trực thuộc là công đoàn các nhà máy, xí nghiệp, các xưởng sản xuất . Trong đó có những công đoàn số lượng đoàn viên đông, hoạt động mạnh như : công đoàn xưởng quân giới H51, K82, công đoàn hai xưởng TK1 và TK 2 của Tổng kiên đoàn , công đoàn nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, công đoàn vận tải thuỷ sông Lô…

       Từ ngày 21 đến ngày 23/6/1950 được sự nhất trí của tổng liên đoàn lao động Việt Nam , đại hội lần thứ I Liên hiệp Công đoàn Tuyên Quang được tổ chức tại Chiêm Hoá . Đại hội đã có 45 đại biểu , thay mặt cho hàng chục vạn công nhân , lao động và đoàn viên công đoàn Tuyên Quang về dự . Đồng chí Trần Thanh Quang bí thư tỉnh uỷ Tuyên Quang, đồng chí Nguyễn Hữu Mai tổng thư ký Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, nhiều đồng chí lãnh đạo khác về dự đại hội . Đại hội đã tập trung vào các vấn đề :

  • Tổng kết phong trào công nhân , lao động và các hoạt động công đoàn từ tháng 6/1946 cho đến giữa năm 1950 .
  • Tổng kết và rút ra các bài học kinh nghiệm về phong trào thi đua trong công nhân , lao động và hoạt động công đoàn Tuyên Quang.
  • Đề ra phương hướng , nhiệm vụ của phong trào công nhân và hoạt động công đoàn thời gian tới là : xây dựng Tuyên Quang thành hậu phương vững chắc , Thủ đô kháng chiến của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà . Xây dựng củng cố khối đại đoàn kết dân tộc . Xây dựng đội ngũ công nhân , lao động và tổ chức công đoàn vững mạnh . Làm tròn trách nhiệm là lực lượng chủ lực của mặt trận Việt minh , mặt trận Liên việt . Tăng cường sự phối hợp hoạt động với các tổ chức quần chúng như Hội liên hiệp phụ nữ , hội liên hiệp nông dân , hội liên hiệp thanh niên [36] .

      Đại hội đã bầu ban chấp hành liên hiệp công đoàn tỉnh Tuyên Quang có 7 đồng chí, đồng chí Bùi Thế Dương Uỷ viên ban chấp hành Tỉnh uỷ được bầu làm Thư ký và đồng chí Trần Đức Việt được bầu làm Phó thư ký Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang.

       Đại hội lần thứ I Công đoàn Tuyên Quang đã đánh dấu một mốc lớn trong lịch sử phong trào công nhân, công đoàn tỉnh nhà. Trong những năm kháng chiến, Tuyên Quang thực sự đã tiêu biểu cho phong trào công nhân, lao động và hoạt động Công đoàn cả nước .

       Từ cuối năm 1950 , hưởng ứng lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh , liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã phát động phong trào thi đua trong các công xưởng , nhà máy , xí nghiệp cơ quan với khẩu hiệu “Tất cả vì tiền tuyến , tất cả để chiến thắng giặc Pháp” . Để phong trào thi đua này có hiệu quả, công đoàn đã thành lập các ban thi đua và do thư ký công đoàn cơ sở làm trưởng ban hoặc là uỷ viên thường trực. Tại các ngành , các cơ quan hành chính - sự nghiệp đều có chỉ tiêu , định mức thi đua cụ thể . Ở các nhà máy xí nghiệp phong trào thi đua đề ra là : không có sản phẩm loại II, tiết kiệm vật liệu, an toàn lao động ,cải tiến kĩ thuật , tăng năng suất lao động, chế tạo ra nhiều loại vũ khí mới . Kết quả của các phong trào thi đua này đã cung cấp nhiều loại vũ khí đạn dược như súng SKZ , DAM , cối 60L ,81L và 120 L1 , các loại bộc phá , mìn… kịp thời phục vụ cho chiến dịch biên giới .

       Phong trào “Thi đua ái quốc” mà trung tâm là thi đua tập thế, thi đua với tổ  Cao Viết Bảo được khởi đầu từ Tuyên Quang. Có thể nói phong trào “Thi đua ái quốc” của công nhân, lao động Tuyên Quang đã trở thành cái nôi, tiền đề cho phong trào này ra khắp cả nuớc. Công đoàn các ngành vận tải thuỷ bộ , xây dựng cầu đường đã có nhiều sáng kiến hoàn thành các con đường huyết mạch như quốc lộ Hà – Tuyên , con đường từ Thái Nguyên về Bình Ca chạy sang Yên Bái – Nghĩa Lộ . Trong đó công đoàn vận tải sông Lô – Tuyên Quang là một điển hình tiêu biểu trong việc phục vụ tiền tuyến . Đặc biệt ở đây có nhiều công nhân nữ đã dũng cảm vượt qua bao khó khăn , bom đạn đưa hàng tới đích phục vụ cho chiến dịch biên giới, đại hội Đảng lần thứ II… chiến công này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi “Các chị em yêu cầu được đóng góp , tham gia kháng chiến như nam giới , việc đó càng tỏ rõ lòng yêu nước nồng nàn của chị em , như thế là tốt lắm. Tôi sẽ bày tỏ với Chính phủ yêu cầu của chị em , tôi lại mong chị em xung phong thi đua ái quốc , thân ái đoàn kết , tổ chức công việc cho nhanh , cho khá, mọi người đều học cho biết đọc , biết viết , làm tính , giữ bí mật và giúp đỡ cho bộ đội” . Công đoàn các ngành y tế , giáo dục , bưu điện , in ấn , canh nông , công an có phong trào thi đua học tập nâng cao trình độ văn hoá , cải tiến lề lối làm việc để phục vụ nhân dân được tốt hơn . Đặc biệt công đoàn các khối Dân , Chính tổ chức học tập theo lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận , nhất là công tác dân vận đối với đồng bào các dân tộc ít người. Nhiều cán bộ của liên hiệp công đoàn tỉnh đã được cử vào các nhà máy , công binh xưởng làm công tác dân vận . Do đó công đoàn các cơ quan hành chính sự nghiệp , công xưởng nhà máy đều đặt nhiệm vụ dân vận lên hàng đầu . Khẩu hiệu cho mỗi cán bộ , đoàn viên công đoàn là “Làm cho dân yêu , dân mến , dân bảo vệ công xưởng và giữ bí mật công xưởng”.

      Phong trào thi đua đã nổi bật các tấm gương tiêu hiểu của công nhân, lao động Tuyên Quang như: Phạm Quang Đảng chiến sĩ thi đua Toàn quốc, Lê Đức Thịnh xưởng sản xuất K72 đã đưa năng suất tăng 400, Nguyễn Phúc Đồng thợ tiện đã có nhiều sáng kiến trong chế tạo vũ khí, Trương Thị Xin công nhân hoá chất …Công đoàn đã tổ chức các lớp học xoá nạn mù chữ cho con em các bản làng và khám chữa bệnh cho đồng bào dân tộc . Trạm y tế của các cơ quan, nhà máy, công xưởng đã tổ chức nhiều đợt khám chữa bệnh cho nhân dân. Theo thống kê từ cuối năm 1952 , hoạt động công đoàn đã tham gia xoá nạn mù chữ cho hơn 2 vạn người, khám chữa bệnh cho 4 vạn người dân [37].

      Cùng với việc tổ chức các phong trào thi đua lao động sản xuất, Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang còn coi trọng việc chăm lo đời sống cho công nhân, viên chức, lao động. Từ cuối năm 1950 , sau chiến thắng biên giới, liên hiệp công đoàn đã phát động phong trào tăng gia sản xuất trong công nhân, viên chức lao động. Tất cả các cơ quan, nhà máy, công xưởng đều tổ chức khai hoang đất trồng trọt, tổ chức chăn nuôi, cải thiện đời sống. Chỉ tiêu là tự túc được 50% rau xanh và một phần thực phẩm. Kết quả là đến đầu năm 1952, phong trào tăng gia đã thu hoạch được hơn 1 vạn tấn rau, chăn nuôi hơn 4000 bò và hàng vạn con gia cầm. Liên hiệp công đoàn đã lấy tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc tăng gia sản xuất để mọi cán bộ, công nhân, lao động làm theo [38].

       Cùng với việc tổ chức tăng gia sản xuất, hoạt động công đoàn đã thể hiện bước đầu chức năng quản lý, chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho công nhân, lao động đấu tranh chống lại tiêu cực trong quản lý tài chính kinh tế. Tháng 2/1951 tại đoàn vận tải sông Lô, công đoàn đã đấu tranh với hiện tượng tiêu cực của trạm cung cấp lương thực Chiêm Hoá. Kết quả là thanh tra chính phủ đã kết hợp với Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang giải quyết dứt điểm vụ việc, đem lại niềm tin cho công nhân, lao động. Qua sự kiện này, vai trò của công đoàn Tuyên Quang và công đoàn cơ sở vận tải sông Lô được nâng cao[39].Có thể nói hoạt động của công đoàn Tuyên Quang đã có nhiều thay đổi kể từ sau Đại hội công đoàn Việt Nam lần thứ nhất . Đặc biệt là trong dịp đại hội Đảng lao động Việt Nam lần thứ II (1951) , và đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc (1952). Cụ thể là công nhân các xưởng sản xuất vũ khí đã đưa năng suất lao động tăng thệm 20% . Cán bộ các cơ quan hành chính sự nghiệp ở trung ương và địa phương có nhiều cải tiến trong lề lối làm việc , khắc phục bệnh cá nhân chủ nghĩa , khắc phục bệnh quan liêu, bệnh “quan Cách mạng”. Phong trào thi đua đã động viên hầu hết mọi công nhân, viên chức, lao động tham gia, qua đó đã kết nạp nhiều đoàn viên, củng cố công đoàn cơ sở. Đến cuối năm 1952 “công đoàn đã thu hút được gần 99% công nhân trong các cơ quan”[40].

       Quán triệt nghị quyết đại hội Đảng bộ Tuyên Quang lần thứ I (1951) về việc phát triển Đảng viên là công nhân , lao động trong các nhà máy , xí nghiệp. Ban thường vụ liên hiệp công đoàn đã có những biện pháp phát triển Đảng trong công nhân, lao động. Liên hiệp công đoàn đã tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng Đảng cho các đoàn viên công đoàn và công nhân ưu tú. Tiếp đó cử nhiều đồng chí cán bộ công đoàn chủ chốt đi học các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ do tỉnh uỷ hoặc trường Đảng Nguyễn Ái Quốc tổ chức. Kết quả là đến cuối năm 1952, công đoàn Tuyên Quang đã có 20 đồng chí cán bộ chủ chốt đi học các lớp kể trên. Trong đó có nhiều đồng chí được học lớp bồi dưỡng công vận thuộc Trường Công đoàn Hoàng Quốc Việt (này là trường Đại học Công đoàn). Bên cạnh đó việc phát triển Đảng trong công nhân, lao động cũng được các cấp công đoàn đoàn chú ý, đến hết năm 1952, đã có gần 250 công nhân, lao đông ưu tú được kết nạp vào Đảng lao động Việt Nam .

       Cuối năm 1952 nhằm tăng cường và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc , tỉnh uỷ chủ trương kiện toàn các tổ chức quần chúng nằm trong mặt trận Tổ quốc. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh đã tăng cường sự lãnh đạo công tác mặt trận và các tổ chức như Công đoàn, thanh niên , phụ nữ , nông hội . Đã đưa nhiều đồng chí uỷ viên Ban chấp hành tỉnh uỷ tham gia vào Ban chấp hành các tổ chức quần chúng . Riêng đối với tổ chức công đoàn , tỉnh uỷ đã cứ một đồng chí thường vụ tỉnh uỷ phụ trách công tác công vận và chỉ đạo trực tiếp mọi hoạt động của Liên hiệp công đoàn. Ngoài ra Tổng liên đoàn lao động Việt Nam còn đưa 6 cán bộ các ban của Tổng về hoạt động tại liên hiệp công đoàn tỉnh . Trong đó có nữ đồng chí Nguyễn Thị Trinh ( vợ đồng chí Nguyễn Lương Bằng ) về trực tiếp phụ trách công tác vận động nữ công nhân, viên chức của liên hiệp công đoàn.

       Cũng trong dịp này để hỗ trợ cho hoạt động công đoàn các tỉnh trong và ngoài liên khu Việt Bắc và chuẩn bị cho chiến dịch quân sự của ta trong hai năm 1953,1954 , Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã điều động 21 đồng chí cán bộ công đoàn Tuyên Quang lên công tác ở Trung ương hoặc bổ sung cho công đoàn các tỉnh khác . Đồng chí Nguyễn Văn Duyệt (thường vụ liên hiệp công đoàn) và nhiều đồng chí uỷ viên chấp hành đã lên công tác ở các cơ quan trung ương hoặc sang làm việc ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên….

      Bước sang năm 1953 , cuộc kháng chiến của nhân dân ta tiếp tục thu được nhiều thắng lợi to lớn , các cuộc hành binh của thực dân Pháp đã lần lựơt bị thất bại ở nhiều nơi trên chiến trường Đông Dương . An toàn khu Tuyên Quang cũng được củng cố vững chắc , tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào công nhân và hoạt động công đoàn phát triên . Quán triệt sự chỉ đạo của tỉnh uỷ , tháng 4 /1953 , liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã họp hội nghị đề ra nội dung và phương thức hoạt động phù hợp với tình hình mới . Trong hội nghị này, Ban thường vụ Liên hiệp lao động đã chỉ ra những mặt mạnh , mặt yếu trong hoạt động công đoàn , nhất là hoạt động công đoàn ở các nhà máy xí nghiệp . Từ sau hội nghị này , hoạt động công đoàn đã có nhiều chuyển biến , khắc phục được căn bệnh thụ động và tăng cường tính chủ động của các cấp công đoàn . Hoạt động công đoàn từ chỗ chỉ động viên cán bộ , công nhân , lao động thực hiện nhiệm vụ chuyên môn đã tiến tới tham gia ý kiến xây dựng quy trình sản xuất , kế hoạch công tác, phát động nhiều cuộc thi đua và trở thành những phong trào rộng khắp . Tiêu biểu là các phong trào thi đua được các cấp công đoàn phát động và đem lại nhiều hiệu quả thiết thực như :

  • Thi đua học tập và làm theo huấn thị của chủ tịch Hồ Chí Minh.
  • Thi đua với anh hùng lao động Ngô Gia Khảm , Cao Viết Bảo .
  • Tăng cường đoàn kết với công nhân , lao động thế giới .

      Hiệu quả của các phong trào thi đua là vừa góp phần tăng năng suất lao động , hoàn thành chỉ tiêu định mức sản xuất ; lại vừa tăng cường ý thức giai cấp , nghề nghiệp ; nêu cao tinh thần làm chủ nhà máy , xí nghiệp cơ quan , làm chủ sản xuất và tỉnh thần tự lực cánh sinh của công nhân , viên chức , lao động .

     Hoạt động công đoàn tỉnh Tuyên Quang từ năm 1953 đã chú trọng hơn tới công tác vận động công nhân, lao động là người các dân tộc . Do những đặc điểm về phong tục, tập quán lối sống, nên tỷ lệ công nhân, lao động là người dân tộc còn ít, đa phần trình độ và nhận thức chính trị còn thấp kém. Quán triệt sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ cũng như sự phối hợp công tác của mặt trận và các đoàn thể. Công đoàn các cấp đã góp phần tổ chức, đào tạo và bồi dưỡng được 722 cán bộ là người các dân tộc ít người. Một phần trong số đó là cán bộ các công đoàn, được phát hiện và bồi dưỡng từ thực tiễn của phong trào công nhân, lao động Tuyên Quang. Đây là những hạt nhân quý báu cho viêc tuyên truyền, giáo dục và vận động đồng bào các dân tộ, góp phần vào việc củng cố, tăng cường khối Đại đoàn kết dân tộc, tăng cường sức mạnh cho Mặt trận dân tộc Tuyên Quang.

       Đầu năm 1953 , hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 4 (khoá 2) đã ra nghị quyết về tiến hành cải cách ruộng đất“Người cày có ruộng”, hoàn thành một nhiệm vụ quan trọng của Cách mạng Dân tộc - Dân chủ , tăng cường sức mạnh cho cuộc kháng chiến. Quán triệt tinh thần nghị quyết của Trung ương Đảng, Tỉnh uỷ Tuyên Quang đã chỉ rõ “Nhiệm vụ công tác trọng tâm năm nay của chúng ta là phải phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng , chủ yếu là triệt để giảm tô , thực hiện giảm tức”[41]. Để làm tốt việc này, Tỉnh uỷ đã thành lập ban chỉ đạo cải cách ruộng đất, có đại diện của chính quyền và các tổ chức đoàn thể tham gia. Qua đó phát động quần chúng nhân dân lao động , tích cực tham gia cải cách ruộng đất và đấu tranh chống lại mọi hành động phá hoại của giai cấp địa chủ , phong kiến.

       Quán triệt sự chỉ đạo của tỉnh uỷ và ban chỉ đạo cải cách ruộng đất, liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã thành lập bộ phận tham gia cải cách ruộng đất do đồng chí Bùi Thế Dương phụ trách . Liên hiệp công đoàn còn cử 12 đồng chí là uỷ viên chấp hành liên hiệp công đoàn và một số đồng chí cán bộ công đoàn ở các nhà máy, xí nghiệp về các thôn, làng, bản, hỗ trợ nông dân trong cuộc cải cách ruộng đất.

      Tháng 5/1953 , cuộc cải cách ruộng đất bắt đầu từ đồn điền Vật Lãm (Chính Tâm , Yên Bình) và sau đó phổ biến ra toàn tỉnh Tuyên Quang . Trải qua 5 cuộc phát động quần chúng nông dân đấu tranh thực hiện cải cách ruộng đất với khẩu hiệu “ruộng đất về dân cày”, Tuyên Quang đã cơ bản hoàn thành cuộc cải cách ruộng đất . Kết quả của cuộc cải cách ruộng đất là đem lại quyền làm chủ ruộng đất cho nông dân , xoá bỏ ách bóc lột của giai cấp địa chủ , phong kiến , xác lập bước đầu quan hệ mới trong nông thôn và tăng cường thêm sức mạnh cho hậu phương tỉnh Tuyên Quang . Đặc biệt trong cuộc cải cách ruộng đất , liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã phối hợp với chính quyền các cấp làm tốt việc này ở các đồn điền của địa chủ người Pháp , hoặc người Việt. Đến cuối năm 1953 đã có 14 đồn điền trong tỉnh hoàn thành cải cách ruộng đất , hàng ngàn công nhân nông nghiệp và nông dân được cấp đất và thoát khỏi ách bóc lột của địa chủ phong kiến , của chủ đồn điền .

      Trong cuộc cải cách ruộng đất , các cấp công đoàn đã có nhiều hoạt động về tuyên truyền , giáo dục động viên mọi tầng lớp công nhân , lao động tham gia . Theo thống kê từ tháng 5/1953 đến tháng 3/1954 đã có hàng vạn lá thư của công nhân ở các nhà máy , xí nghiệp bày tỏ sự ủng hộ đối với nông dân trong cải cách ruộng đất . Liên hiệp công đoàn đã tổ chức được 254 cuộc nói chuyện , mít tinh ủng hộ cải cách ruộng đất. Đặc biệt ở những điểm cải cách quan trọng và ở các đồn điền nơi có đông công nhân , lao động Liên hiệp Công đoàn đã cử nhiều cán bộ công đoàn tham gia trực tiếp vào cải cách ruộng đất . Nhìn chung việc tham gia cải cách ruộng đất của Công đoàn đều đảm bảo hoàn thành trước thời hạn và hạn chế các sai lầm , thiếu sót .

       Công cuộc cải cách ruộng đất ở Tuyên Quang nói riêng và cả nước nói chung , đã thể hiện bước tiến quan trọng của Cách mạng Việt Nam trong cách mạng Dân tộc - Dân chủ . Cho dù mắc phải một số sai lầm , nhưng cải cách ruộng đất đã tạo nên sức mạnh to lớn của cuộc kháng chiến , góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong hai năm 1953 – 1954 .

      Cuối năm 1953, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ra có nhiều chuyển biến quan trọng, chúng ta đã giành được thế chủ động trên các chiến trường. Tháng 10/1953 chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã mở màn ở khu vực Bắc Bộ . Trung ương Đảng đã ra nghị quyết “Toàn dân , toàn Đảng và Chính phủ nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này”[42]. Trung ương Đảng đã thành lập ban tiếp tế hậu phương do đồng chí Phạm Văn Đồng phụ trách , đồng chí Nguyễn Công Hoà phó chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam là uỷ viên và một số đồng chí ở các đoàn thể khác tham gia . Nhiệm vụ của Ban tiếp tế hậu phương là phải huy động được tối đa nguồn lực , phục vụ cho mục tiêu “tất cả để chiến thắng” . Riêng đối với giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn thì phải : đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất , đảm bảo đủ yêu cầu về vũ khí, đạn dược quân trang quân dụng cho chiến trường. Tháng 11/1953, thường vụ Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã ra chỉ thị về việc đẩy mạnh phong trào thi đua (nhất là ở các nhà máy , xí nghiệp quân giới), theo gương các anh hùng Ngô Gia Khảm , Tôn Thất Tùng , Trần Đại Nghĩa , Cao Viết Bảo…có thể nói chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ đã thể hiện vai trò to lớn của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp .

       Tại Tuyên Quang , tháng 11/1953 quán triệt sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh , Thường vụ tỉnh uỷ cũng đã đề ra nhiệm vụ cụ thể của quân , dân trong tỉnh là :

  • Xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền từ cơ sở .
  • Đẩy mạnh sản xuất , nhất là sản xuất nông nghiệp, đảm bảo đời sống nhân dân và cung cấp một phần lương thực , thực phẩm cho các cơ quan trung ương cũng như các đơn vị bộ đội .
  • Đảm bảo thông suốt hệ thống giao thông vận tải thuỷ bộ , chú ý các tuyến đường quan trọng như 13A , quốc lộ 2, vận tải trên sông Lô và các bến phà .
  • Khi cần huy động được nguồn nhân lực , vật lực cho chiến trường Tây Bắc và chiến dịch Điện Biên Phủ .
  • Tiếp tục bảo vệ an toàn các cơ quan trung ương Đảng , chính phủ và Bác Hồ đang đóng trên địa bàn tỉnh .

       Để làm tốt các việc trên , tỉnh uỷ đã thành lập “Ban cung cấp tiền phương” do một đồng chí thường vụ tỉnh uỷ phụ trách . Đồng chí Trần Đức Việt – phó thư ký liên hiệp công đoàn làm phó ban . Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến chiến thắng”, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang cũng như đội ngũ công nhân , lao động ở đây đã dồn mọi sức lực , trí tuệ cho mặt trận . Trên mặt trận lao động sản xuất và chi viện cho tiền tuyến , công nhân lao động trong các xưởng quân giới đã tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua tăng năng suất lao động . Điển hình là cán bộ , công nhân và các đoàn viên công đoàn ở các nhà máy MH1­­,MK2 , mỏ Bình Ca , xưởng giấy Hoàng Văn Thụ đã đưa năng suất tăng lên 115%. Cá biệt có cá nhân , có xưởng sản xuất đã tăng lên 400% [43] . Thời gian này nhiều xưởng quân giới ở Tuyên Quang đã chế tạo được một số vũ khí , trang bị cho các đơn vị bộ đội địa phương và dân quân du kích , như lựu đạn cầm tay chuôi gỗ , mìn , dao kiếm .

       Cùng với nhân dân các dân tộc, công nhân, lao động và các tổ chức công đoàn đã đẩy mạnh tăng gia sản xuất, vừa cải thiện đời sống vừa cung cấp một phần cho tiền tuyến. Theo thống kê từ tháng 12/1953 đến tháng 4/1954, công nhân, lao động đã góp phần cùng với nhân dân Tuyên Quang chi viện cho mặt trận 6500 tấn gạo, 54 tấn thịt trâu bò, 42 tấn thịt lợn, 16 tấn lạc, 11,5 tấn đỗ xanh và hàng ngàn tấn rau các loại [44] .

      Trên mặt trận giao thông vận tải , công nhân , lao động và tổ chức công đoàn đã có những đóng góp quan trọng , bảo vệ và bảo đảm hệ thông giao thông của tỉnh nhà . Nằm ở vị trí có nhiều tuyến đường huyết mạch thuỷ - bộ chạy qua, và là hậu phương để chi viện cho chiến trường Tây Bắc . Nên từ cuối năm 1953 địch đã tập trung đánh phá ác liệt hệ thống giao thông ở Tuyên Quang. Ngoài ra chúng còn đưa các đơn vị biệt kịch gián điệp đánh phá kho tàng , gây rối an ninh hòng ngăn cản việc chi viện cho chiến trường. Vì vậy tỉnh uỷ Tuyên Quang đã rất chú trọng công tác bảo vệ , sửa chữa hệ thống giao thông vận tải . Dưới sự chỉ đạo của Ban thường vụ tỉnh uỷ và Ban cung cấp tiền phương , liên hiệp công đoàn đã tổ chức hàng vạn lượt cán bộ công nhân , lao động và đoàn viên công đoàn vào mặt trận giao thông vận tải . Chúng ta đã góp phần vào việc sửa chữa hơn 200 km đường giao thông , đảm bảo thông suốt giao thông ở quốc lộ 2 , đường 13A và tất cả các bến phà cũng như góp phần vào 1,1 triệu ngày công xây dựng sửa chữa đường sá . Trên mặt trận giao thông vận tải đã nổi bật nhiều tập thể , cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc vận chuyển hàng hoá , vũ khí ra chiến trường . Tiêu biểu là tập thể đoàn viên Công đoàn vận tải sông Lô – Tuyên Quang , công nhân thuỷ thủ bến phà Bình Ca , 2 đơn vị sửa chữa đương sá 216, 217…[45].

      Dưới sự chỉ đạo của “Ban cung cấp tiền phương”,các cấp công đoàn đã tổ chức và động viên hàng vạn hàng lượt người đi phục vụ chiến trường Tây Bắc và chiến dịch Điện Biên Phủ . Trong suốt chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ , công nhân , lao động và đoàn viên công đoàn đã góp phần vào gần 2 triệu ngày công và gần 6 vạn lượt người tham gia phục vụ các chiến dịch quân sự . Đây thực sự là một cố gắng phi thường , hy sinh to lớn của đội ngũ công nhân , lao động và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang .

       Là một hậu phương vững chắc của kháng chiến , là an toàn khu của trung ương Đảng , chính phủ , Bác Hồ . Việc xây dựng và củng cố hậu phương về an ninh – chính trị càng được coi trọng trong thời gian cuối của cuộc kháng chiến . Đến tháng 10/1953 , hầu hết các cơ quan quan trọng của trung ương đều đã di chuyển về làm việc tại Tuyên Quang . Bên cạnh đó là nhiều nhà máy , xí nghiệp lớn và quan trọng , cũng như một loạt bệnh viện , trường học , nơi điều dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ. Đặc biệt Tuyên Quang còn là nơi ở, làm việc của một số cơ quan của Đảng , chính phủ và mặt trận Lào yêu nước. Các đồng chí Cay – xỏn – phôm – vi – Hản , Xu – pa – nu – vông … từng làm việc tại đây . Theo thống kê, trên địa bàn Tuyên Quang có hơn 33 xã với hàng trăm làng , bản , là nơi ở, làm việc của các cơ quan , nhà máy , xí nghiệp thuộc trung ương và địa phương. Đội ngũ công nhân , lao động và công đoàn Tuyên Quang đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ an ninh , an toàn tuyệt đối cho Đảng , chính phủ và Bác Hồ . Trong suốt 9 năm kháng chiến và nhất là vào thời gian cuối , Tuyên Quang thật sự là ATK của cách mạng Việt Nam. Không những thế Tuyên Quang còn là cái nôi góp phần che chở , nuôi dưỡng cho các cơ quan đầu não của Cách mạng Lào.

      Chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi vào ngày 7/5/1954 . Thắng lợi này đã đập tan kế hoạch Na – Va , làm sụp đổ âm mưu kéo dài chiến tranh của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Trong thắng lợi vĩ đại này , bằng phong trào thi đua lao động sản xuất, phục vụ chiến đấu, đội ngũ công nhân, lao động và công đoàn Tuyên Quang đã góp phần hoàn thành vai trò , nhiệm vụ của một tỉnh hậu phương , an toàn khu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp . Cùng với đồng bào các dân tộc trong tỉnh , công nhân lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã được Đảng , chính phủ tặng thưởng cờ và huân chương kháng chiến hạng ba . Phần thường cao quý đó là sự ghi nhận của Tổ quốc đối với đội ngũ công nhân , lao động nói riêng và nhân dân Tuyên Quang nói chung trong 9 năm kháng chiến trường kỳ anh dũng .

      Cùng với giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn cả nước, phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã góp phần xứng đáng vào chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Như nhận định của Đại hội Công đoàn toàn quốc Việt Nam lần thứ II (2/1961):“ Chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta ở Điện Biên Phủ đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược do thực dân Pháp và can thiệp Mỹ gây ra  và đã đưa đến việc lý kết hiệp định Giơnevơ , lập lại hoà bình ở Đông Dương giải phóng hoàn toàn Miền Bắc . Giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn chúng ta , dưới sự lãnh đạo của Đảng , đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu , đã đem hết sức mình phục vụ kháng chiến và đã góp phần tích cực vào thắng lợi lịch sử đó”[46] .

       Ngày 20/7/1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương . Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ lịch sử thực hiện nhiệm vụ chiến lược mới của Cách mạng Việt Nam. Trải qua 9 năm kháng chiến gian khổ và hy sinh đội ngũ công nhân , lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã trưởng thành về mọi mặt, trở thành lực lượng trụ cột của khối đại đoàn kết dân tộc , bảo vệ vững chắc trung tâm căn cứ địa của Cách mạng nước ta . Tổng kết thành tích 9 năm kháng chiến đã có gần 150 công nhân được tặng thưởng huân chương kháng chiến, nhiều đồng chí là chiến sĩ thi đua và anh hùng lao động được tuyên dương năm 1952[47] . Đặc biệt các đồng chí lãnh đạo liên hiệp công đoàn tỉnh giai đoạn năm 1945-1954 như Lê Quang Tuệ, Lê Như Thảo, Bùi Thế Dương, Trần Văn Tuynh, Trần Đức Việt, Nguyễn Văn Duyệt, Trần Quang Ngọc, Hoàng Minh Quân … đã có nhiều công lao trong việc lãnh đạo công đoàn các cấp, lăn lộn trong phong trào công nhân , góp phần đưa phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Tuyên Quang ngày một phát triển . Sau khi hoà bình lập lại , nhiều đồng chí cán bộ công đoàn và nhiều công nhân , lao động xuất sắc đã được trung ương , chính phủ và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam điều động về làm việc tại các cơ quan trung ương cũng như tăng cường cho các địa phương khác .

        Có thể nói trải qua cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp , dưới sự lãnh đạo của tỉnh uỷ , sự giúp đỡ của uỷ ban nhân dân tỉnh và các tổ chức đoàn thể , tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã trưởng thành vượt bậc . Đến tháng 7/1954 , công đoàn Tuyên Quang đã có hàng chục vạn đoàn viên và cán bộ công đoàn (thuộc cơ quan trung ương và địa phương). Công đoàn Tuyên Quang thực sự tiêu biểu cho hoạt động công đoàn cả nước, góp phần xây dựng Việt Bắc là thủ đô của Cách mạng Việt Nam. Cho dù sau đó , nhiều cán bộ và đoàn viên công đoàn đã rời Tuyên Quang về Hà Nội và các nơi khác, nhưng Tuyên Quang vẫn mãi là trung tâm của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp .

       Trải qua 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, phong trào công nhân, lao động và hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã trưởng thành về mọi mặt, góp phần cùng với nhân dân các dân tộc trong tỉnh, làm nên những thay đổi kỳ diệu của tỉnh nhà. Được như vậy là nhờ những nguyên nhân sau :

  • Một là , phong trào công nhân , lao động và hoạt động công đoàn Tuyên Quang được sự chỉ đạo của tỉnh uỷ, sự giúp đỡ của các cấp chính quyền nên luôn đi đúng mục tiêu và nhiệm vụ của mình, làm tốt việc tổ chức, tập hợp và động viên công nhân , lao động góp phần tích cực vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp .
  • Hai là , phong trào công nhân , lao động và hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã nhận được sự chỉ đạo và giúp đỡ của các cơ quan trung ương đóng trên địa bàn tỉnh . Đặc biệt đó là sự giúp đỡ trực tiếp của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và nhiều đồng chí lãnh đạo công đoàn như Hoàng Quốc Việt , Trần Danh Tuyên , Nguyễn Hữu Mai …. Bên cạnh còn là sự giúp đỡ của hàng vạn công nhân , lao động , cán bộ và đoàn viên công đoàn thuộc các cơ quan , nhà máy , xí nghiệp đã di chuyển và làm việc thời gian khá dài ở Tuyên Quang .
  • Ba là , các cấp lãnh đạo công đoàn Tuyên Quang nhất là cơ quan liên hiệp công đoàn tỉnh đã luôn chủ động , sáng tạo và tích cực lăn lộn vớI phong trào công nhân , hoạt động công đoàn cơ sở . Cho dù trình độ năng lực còn hạn chế , phương tiền hoạt động còn thiếu thốn nhưng đội ngũ cán bộ công đoàn nhất là các đồng chí chủ chốt , đã xung phong gương mẫu sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp chung của dân tộc, của giai cấp và của tổ chức Công đoàn Việt Nam .

      Tuy nhiên hoạt động công đoàn Tuyên Quang trong kháng chiến chống thực dân Pháp vẫn bộc lộ những hạn chế , thiếu sót như :

  • Việc tổ chức tập hợp công nhân , lao động còn phiến diện , chưa chú trọng nhiều đến đối tượng thuộc các dân tộc ít người .
  • Tính quần chúng trong hoạt động công đoàn chưa được chú ý nên ảnh hưởng đến việc xây dựng , phát triển đoàn viên công đoàn , nhất là đối với tầng lớp trí thức , nhân sĩ ….
  • Hình thức hoạt động công đoàn chưa đa dạng , còn cứng nhắc , chưa nhận thức đầy đủ được mối quan hệ giữa yêu cầu chính trị với yêu cầu mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc trong mặt trận .
  • Đội ngũ cán bộ công đoàn còn thiếu , trình độ - năng lực hoạt động còn hạn chế . Hệ thống tổ chức chưa hoàn thiện , chắp vá ; công tác chỉ đạo của các cấp công đoàn còn yếu và chậm trễ ….

       Cho dù vậy phong trào công nhân , lao động và hoạt động công đoàn Tuyên Quang trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp đã giành được thắng lợi to lớn cơ bản . Những thành quả đó tạo tiền đề cho công nhân , lao động và công đoàn Tuyên Quang bước vào thời kỳ cả nước thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược của Cách mạng Việt Nam . Đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc , đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà .

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

             Chương IV : Phong trào công nhân , công đoàn

      Tuyên Quang trong xây dựng CNXH và đấu tranh

                thống nhất nước nhà ( 1954 – 1975 )

 

I . Phong trào công nhân , công đoàn Tuyên Quang trong khôi phục , cải tạo và phát triển kinh tế ( 1954 – 1960 ) :

1 . Phong trào công nhân, công đoàn trong khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh (1954 – 1957):

      Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, đã mở ra một thời kỳ mới của Cách mạng Việt Nam. Thời kỳ cả nước cùng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc , đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà .

       Miền Bắc sau khi được giải phóng, gặp rất nhiều khó khăn, kẻ thù tìm đã dùng nhiều thủ đoạn để phá hoại công cuộc khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh. Trước tình hình mới của Cách mạng nước ta, Trung ương Đảng và Chính phủ đã vạch ra kế hoạch 3 năm khôi phục, hàn gắn vết thương chiến tranh (1954 – 1957). Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân là:“Đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến, đề phòng và khắc phục mọi âm mưu phá hoại hiệp định đình chiến đề củng cố hoà bình, ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất , phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng Quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam; nhằm củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ toàn quốc”[48]. Để nhanh chóng ổn định tình hình chính trị, an ninh ở các thành phố, thành thị; Đảng ra đã chỉ rõ:“Việc tiếp quản các thành thị và vùng nông thôn mới giải phóng là nhiệm vụ nặng nề… vấn đề quan trọng nhất trong tiếp quản là phòng ngừa tình trạng hỗn loạn, phòng ngừa bọn lưu manh côn đồ lén lút trong các thành phố lợi dụng thời cơ quấy rối”[49]. Muốn làm được việc này “Ta phải tiến hành công tác trong công nhân , phải kiên quyết dựa vào công nhân”[50] .

       Quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng trong kế hoạch 3 năm (1954-1957), Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã ra nghị quyết về nhiệm vụ tổ chức công đoàn lúc này là : “Cần phải động viên , tổ chức đông đảo quần chúng công nhân , lao động trong các đô thị thành một lực lượng mạnh mẽ , làm chỗ dựa tốt nhất , chắc chắn nhất cho chính quyền “ và “Giai cấp công nhân Việt Nam hãy phá tan mưu mô của địch lừa bịp bắt ép đồng bào ta di cư vào Nam , hãy đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước giành nhiều thành tích hơn trong nhiệm vụ phục hồi sản xuất”[51].

      Sau ngày hoà bình lập lại đội ngũ công nhân,viên chức, lao động và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang hân hoan chào đón thắng lợi và bắt tay thực hiện công cuộc khôi phục kinh tế, văn hoá, xã hội. Lúc này, Tuyên Quang gặp rất nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh, như nông nghiệp đã có hơn 2000 ha đất bị bỏ hoang, hàng vạn Nông dân bỏ ruộng sản xuất. Cuối năm 1954 sản lượng lương thực đã hụt hơn 6000 tấn so với các năm trước. Trong công nghiệp nhiều nhà máy, xí nghiệp, phải di chuyển địa điểm sản xuất, thiếu thốn nguyên vật liệu và chưa thích ứng với hoàn cảnh sản xuất mới. Hệ thống hạ tầng cơ sở như đường sá, bệnh viện, trường học, điện nước…chưa được khôi phục. Bên cạnh đó nạn đói vẫn còn ở nhiều nơi , các hủ tục và tệ nạn của xã hội vẫn còn diễn ra tồn tại trong nhiều làng, bản của đồng bào dân tộc ít người .

      Về đội ngũ công nhân, viên chức, lao động Tuyên Quang thì sau ngày 20/7/1954 có nhiều biến động về số lượng và chất lượng . Trước hết là một số lượng lớn cán bộ, công nhân, viên chức, trí thức… và hàng trăm nhà máy, xí nghiệp, trường học, cơ quan rời khỏi Tuyên Quang trở về Hà Nội và các thành phố khácà các địa phương khác công tác. Đây là một hẫng hụt lớn trong đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức lao động Tuyên Quang. Do đó đến tháng 12/1954 trên địa bàn Tuyên Quang số lượng công nhân, viên chức, lao động và các nhà máy, xí nghiệp còn lại không nhiều. Theo thống kê tháng 12/1954, toàn tỉnh Tuyên Quang chỉ còn chưa đầy một vạn công nhân, viên chức, lao động. Trong đó có 12 người có trình độ đại học (chủ yếu là người được đào tạo dưới chế độ cũ), 3 bác sĩ được Trung ương tăng cường cho bệnh viện, phục vụ công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân.

       Tổ chức công đoàn Tuyên Quang sau ngày hoà bình lập lại cũng có nhiều thay đổi, nhiều đồng chí trong Thường vụ và cán bộ viên chức trong liên hiệp công đoàn Tuyên Quang được điều chuyển đi nơi khác. Một số đồng chí về Trung ương và các địa phương khác ; một số đồng chí được Tỉnh uỷ điều sang làm công tác Chính quyền và đoàn thể. Từ tháng 10/1954 đến đầu năm 1955 đã có 22 đồng chí cán bộ công đoàn các cấp được điều động lên công tác ở Trung ương và các tỉnh khác. Đội ngũ cán bộ công đoàn Tuyên Quang lúc này đã có khoảng 30 chuyên trách và một số đồng chí kiêm nhiệm. Cuối năm 1954 đồng chí Bùi Thế Dương (Thư ký liên hiệp công đoàn Tuyên Quang) được điều lên công tác tại Bộ công nghiệp, đồng chí Trần Đức Việt (Phó thư ký) được điều về công tác tại Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. Đề kiện toàn tổ chức và lãnh đạo cho các cấp công đoàn, tháng 10/1954 ban thường vụ tỉnh uỷ đã điều động đồng chí Tăng Văn Toàn, Uỷ viên Ban chấp hành Tỉnh uỷ về làm Thư ký kiêm trưởng ban cán sự Đảng Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang. Trong buổi làm việc với tập thể Ban thường vụ Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang, đồng chí Nguyễn Công Bình Bí thư tỉnh uỷ đã yêu cầu: Ban thường vụ Liên hiệp công đoàn phải nhanh chóng có được chương trình hoạt động, phát huy tinh thần yêu nước, tổ chức cho công nhân,viên chức, lao động tham gia tích cực vào việc khôi phục sản xuất, cải thiện đời sống đối với công nhân, viên chức, lao động ở các mỏ than, mỏ kẽm, vận tải sông Lô và trong Thị xã Tuyên Quang .

      Đầu năm 1955 , Tỉnh uỷ Tuyên Quang đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể cho kế hoạch 3 năm 1954 – 1957 là :

  • Đẩy mạnh mọi mặt công tác góp phần vào việc củng cố miền Bắc “Trọng tâm là khôi phục kinh tế , chủ yếu là khôi phục sản xuất nông nghiệp, trong sản xuất nông nghiệp chủ chốt là sản xuất lương thực”.
  • Tiếp tục đấu tranh để thi hành hiệp định đình chiến . Công việc trước mắt là chống địch dụ dỗ , cưỡng ép di dân , đấu tranh để lập lại quan hệ bình thường Bắc-Nam và mở hội nghị hiệp thương để bàn về tổng tuyển cử, thống nhất nước nhà .
  • Tiếp tục củng cố Đảng và bồi dưỡng , giáo dục Đảng viên sau giảm tô, tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng, đồng thời tích cực củng cố chính quyền và các tổ chức quần chúng .

      Quán triệt sự chỉ đạo của tỉnh uỷ và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam về việc tổ chức, động viên công nhân, viên chức, lao động thi đua lao động sản xuất, góp phần hoàn thành kế hoạch 3 năm khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh. Từ đầu năm 1955, Thường vụ Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang  đã chỉ ra những thuận lợi rất cơ bản của phong trào công nhân, hoạt động công đoàn là: đại đa số công nhân, viên chức, lao động và đoàn viên công đoàn giác ngộ về chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Chính phủ, tích cực tham gia các phong trào thi đua ; Công tác tổ chức, vận động công nhân, lao động của công đoàn luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng , sự giúp đỡ của Chính quyền và các đoàn thể . Tuy nhiên phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn còn gặp nhiều khó khăn như đời sống vật chất, tinh thần còn thấp, trình độ dân trí – văn hoá còn nhiều hạn chế; Một bộ phận công nhân, viên chức, lao động còn bị ràng buộc và bị chi phối bởi các phong tục tập quán lạc hậu. Tình hình cán bộ và tổ chức của công đoàn Tuyên Quang chưa được đồng bộ, số cán bộ công đoàn là người dân tộc chưa nhiều nên ảnh hưởng đến công tác vận động, tổ chức công nhân, lao động thuộc các dân tộc ít người.

       Xuất phát từ những thuận lợi khó khăn đó Ban chấp hành Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã đề ra nội dung, chương trình và những biện pháp của phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn trong kế hoạch 3 năm bao gồm các nội dung :

  • Nâng cao vai trò và tác dụng của tổ chức công đoàn trong việc vận động công nhân, viên chức thi đua thực hiện kế hoạch 3 năm .
  • Vận động công nhân, lao động chống tham ô, lãng phí, quan liêu đảm bảo kinh doanh có lãi, phát triển sản xuất .
  • Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng trong công nhân , lao động ; xây dựng đời sống mới, loại trừ các hủ tục lạc hậu .
  • Tổ chức tốt việc đào tạo , bồ dưỡng cán bộ công đoàn các cấp , chú ý cán bộ là người dân tộc .
  • Nêu cao chức năng chăm lo , bảo vệ đời sống của công nhân , viên chức, lao động và cán bộ công đoàn . Tham gia với các cấp chính quyền quản lý việc phân phối , lưu thông các loại hàng hoá thiết yếu .

       Để phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong việc, vận động công nhân, lao động khôi phục và phát triển kinh tế. Liên hiệp công đoàn coi trọng công tác củng cố, phát triển tổ chức, chỉ đạo các cấp công đoàn thực hiện tốt 3 chức năng; tuyên truyền phổ biến mọi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật và  kế hoạch của Nhà nước tới đông đảo công nhân, viên chức, lao động .

       Năm 1955 năm mở đầu của kế hoạch 3 năm khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh, phong trào thi đua lao động sản xuất ở các nhà máy, xí nghiệp bước đầu mang lại những kết quả quan trọng. Sản xuất công nghiệp, lâm nghiệp, vận tải, thương nghiệp đã đảm bảo được công ăn việc làm cho hàng vạn công nhân, lao động, góp phần ổn định tình hình an ninh – chính trị. Các nhà máy, xí nghiệp quan trọng như mỏ than Tân Trào, điện – nước Thị xã Tuyên Quang, vận tải thuỷ bộ đã đạt được gần 95% công suất. Đặc biệt là đến tháng 12/1955, hơn 96 % công nhân, lao động Tuyên Quang đã có việc làm, có thu nhập. Đây là một thành tựu rất quan trọng của năm đầu kế hoạch 3 năm (1954 -1957).

      Quán triệt tinh thần nghị quyết bộ chính trị về “Tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng”, “Phải kiên quyết dựa vào giai cấp công nhân . Trước hết phải tổ chức công nhân thành lập công đoàn ; giáo dục khuyến khích công nhân cố gắng làm việc , phục hồi sản xuất… Tranh thủ sự ủng hộ của công nhân đối với Đảng , chính phủ”[52]. Tỉnh uỷ coi trọng công tác vận động được quần chúng nói chung và công nhân, viên chức, lao động nói riêng. Bước vào năm 1955, Tỉnh uỷ đã tăng cường thêm một số cán bộ cho tổ chức công đoàn và vạch rõ : Trước hết cần làm cho công nhân, viên chức, lao động thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc khôi phục kinh tế, cũng như trong cuộc vận động khác để tham gia vạch ra kế hoạch sản xuất, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, ra sức tiết kiệm nhằm nâng cao vai trò của công nhân, viên chức, lao động đối với các tầng lớp nhân dân .

       Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã triển khai nhiều đợt học tập chính trị, thời sự trong công nhân, viên chức, lao động . Năm 1955 đã tổ chức cho gần 2 vạn lượt công nhân, viên chức, lao động học tập và hưởng ứng lời kêu gọi ngày 20/7 của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; ký tên vào các bản kiến nghị phản đối Mỹ – Diệm vi phạm hiệp định Giơnevơ, đòi lập lại quan hệ bình thường 2 miền Nam – Bắc , đòi hiệp thương tổng tuyển cử. Thông qua các đợt học tập chính trị , các cấp công đoàn đã góp phần làm cho công nhân, viên chức, lao động thấy rõ nhiệm vụ mới của Cách mạng Việt Nam và âm mưu thâm độc của kẻ thù . Nghị quyết của ban thường vụ liên hiệp công đoàn tỉnh tháng 10/1955 đã yêu cầu các cấp công đoàn phải tăng cường khối đại đoàn kết trong công nhân, viên chức, lao động với đồng bào các dân tộc trong tỉnh, đề cao tinh thần cảnh giác, góp phần cùng toàn thể nhân dân khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh.

       Phát huy truyền thống Cách mạng kiên cường công nhân, lao động và các cấp công đoàn Tuyên Quang, đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi kế hoạch kinh tế của năm 1955 . Khôi phục lại sản xuất nông nghiệp với sản lượng lương thực đạt hơn 13.000 tấn thóc ; khai thác lâm sản đạt giá trị tương đương hơn 14000 tấn thóc, sản xuất công nghiệp đạt gần 96%; hệ thống giao thông vận tải đã được khôi phục. Đặc biệt là để góp phần khôi phục tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai, Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã tổ chức đợt thi đua trong các lâm trường, động viên hơn 10.000 công nhân, viên chức tham gia , khai thác trên 2000 m3 gỗ làm ra 60000 thanh tà vẹt cho tuyến đường sắt trên [53].

      Qua kế hoạch kinh tế của tỉnh trong năm 1955 , đã làm cho đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và công đoàn Tuyên Quang có bước phát triển vững chắc, các cấp công đoàn đã được củng cố và kết nạp thêm nhiều đoàn viên. Như ở mỏ than Tuyên Quang đã kết nạp được 213 người, các lâm trường kết nạp được gần 853 người. Riêng khu vực Thị xã đã kết nạp được 216 người, tổ chức được 11 công đoàn cơ sở [54]. Có thể nói thông qua phong trào thi đua lao động sản xuất, công nhân, viên chức, lao động trong các nhà máy, xí nghiệp, nông – lâm trường đã vươn lên khắc phục khó khăn, thể hiện được vai trò nòng cốt trong khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh .

      Bước sang năm 1956, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ cho toàn thể công nhân, viên chức, lao động là :

  • Đoàn kết rộng rãi lao động chân tay và trí óc phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước đề ra.
  • Xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh để đảm bảo hoàn thành thắng lợi kế hoạch Nhà nước .
  • Đấu tranh kiên quyết đòi thi hành hiệp định Giơnevơ , thực hiện thống nhất nước nhà .

       Xuất phát từ đặc điểm của các tỉnh thuộc khu Việt Bắc , trung ương Đảng, chính phủ đã thành lập Khu tự trị Việt Bắc thay cho Liên khu Việt Bắc bao gồm các tỉnh : Tuyên Quang , Bắc Kạn , Hà Giang , Cao Bằng , Lạng Sơn, Thái Nguyên . Như vậy từ đầu năm 1956 , Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang vừa dưới sự lãnh đạo của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam , lại vừa được sự chỉ đạo của Liên hiệp công đoàn khu tự trị Việt Bắc. Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang dưới sự lãnh đạo của Ban tổ chức Tỉnh uỷ và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam hướng dẫn việc học tập, thực hiện những thay đổi về tổ chức cán bộ, tổ chức hoạt động cho các cấp công đoàn, sắp xếp và kiện toàn lại các Ban hoạt động của Liên hiệp công đoàn, của công đoàn các đơn vị trực thuộc. Đặc biệt là tổ chức việc điều chuyển, cất nhắc và đề bạt cán bộ công đoàn các cấp, trên cơ sở đó đảm bảo sự đoàn kết thống nhất, đúng với chủ trương chính sách của Đảng và Tổng liên đoàn .

        Năm 1956 công cuộc khôi phục , phát triển kinh tế của Tuyên Quang càng được đẩy mạnh. Đảng bộ tỉnh đã xác định: phải ra sức giáo dục, động viên cán bộ, Đảng viên, đoàn viên công đoàn, công nhân, viên chức, lao động và nhân dân các dân tộc phấn đấu thực hiện tốt kế hoạch nhà nước đẩy mạnh việc cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần củng cố miền Bắc vững mạnh, đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà . Năm 1956 công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu trong nông, lâm nghiệp, giao thông vận tải, kiến thiết cơ bản, thương nghiệp. Toàn tỉnh đã sản xuất được 47995 tấn lương thực quy thóc, khai thác 60.374 m3 gỗ , khoanh nuôi 30110 ha rừng, đàn trâu bò có gần 40.000 con, đàn lợn có gần 50.000 con và hàng chục vạn gia cầm các loại . Các hoạt động tài chính, tiền tệ, thương nghiệp có nhiều chuyển biến . Tổng lượng hàng hoá vận chuyển của năm 1956 đạt gần 100.000 tấn, sức tiêu thụ của nhân dân tăng lên 200% so với năm 1955. Đời sống nhân dân nói chung , công nhân , viên chức lao động nói riêng đã cải thiện một bước . Đặc biệt năm 1956 , nạn đói đứt bữa của một số bản làng đã được ngăn chặn kịp thời .

        Những thành tựu trên của Tuyên Quang có sự đóng góp to lớn của đội ngũ công nhân và tổ chức công đoàn . Trong năm 1956, liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã tổ chức 3 đợt thi đua , thông qua đó để giáo dục ý thức lao động mới , phấn đấu hoàn thành kế hoạch năm. Tại nhiều đơn vị sản xuất, công đoàn đã tổ chức tốt phong trào thi đua đem lại hiệu quả thiết thực như :

  • Xí nghiệp J-63 năng suất lao động tăng 112.7% , có 138 sáng kiến , 10 chiến sĩ thi đua (cấp tỉnh) và 23 lao động xuất sắc .
  • Lâm thổ sản : năng suất lao động tăng lên 119% , 317 sáng kiến , có 7 chiến sĩ thi đua và tiết kiệm được số tiền 21.000.000đ.
  • Ngành lương thực - thực phẩn năng suất lao động tăng 110% , tiết kiệm được 3.100.000 , có 4 chiến sĩ thi đua .
  • Ngành bưu điện tăng 109% và một chiến sĩ thi đua .
  • Ngành giao thông vận tải , bảo đảm giao thông thông suốt , năng suất lao động tăng 140% , tiết kiệm được 26.500.000 và có 2 chiến sĩ thi đua.
  • Ngành giáo dục – y tế vượt mức trên 100% , có được 10 chiến sĩ thi đua…[55].

      Có thể nói phong trào thi đua lao động sản xuất do các cấp công đoàn tổ chức đã lôi cuốn được đa số công nhân, viên chức, lao động tham gia , góp phần hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - văn hoá - xã hội của tỉnh. Qua tổng kết, rút kinh nghiệm của các đợt thi đua, công đoàn các cấp đã bầu chọn được nhiều chiến sĩ thi đua xuất sắc cấp tỉnh. Tuy nhiên phong trào thi đua còn có một số hạn chế là : chưa có sự phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền , chưa thường xuyên tổ chức , động viên quần chúng tham gia. Công tác công đoàn chưa đi sâu vào sản xuất, lấy kết quả làm công cụ vận động để nâng cao ý thức cho đoàn viên . Nhiều công đoàn cơ sở chưa đề ra kịp thời kế hoạch toàn diện như gắn thi đua với các mặt công tác là tuyên truyền – giáo dục, chăm lo và bảo vệ đời sống , gắn lợi ích vật chất với lợi ích tinh thần .

      Năm 1956, việc xây dựng và phát triển đoàn viên, củng cố tổ chức công đoàn đã có nhiều chuyển biến. Do sự phát triển bước đầu của công nghiệp , tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải và lâm nghiệp nên số lượng công nhân, lao động đã tăng lên. Đây là một yếu tố quan trọng để phát triển đoàn viên và thành lập công đoàn cơ sở. Tháng 5/1956 Liên hiệp công đoàn đã họp hội nghị ban chấp hành công đoàn mở rộng, đề ra một số biện pháp để phát triển đoàn viên, gắn việc kết nạp đoàn viên với tuyên truyền và nâng cao ý thức chính trị, ý thức giai cấp. Kết quả là đến tháng 12/1956, toàn tỉnh đã kết nạp được gần 4000 đoàn viên công đoàn, thành lập được thêm 54 công đoàn cơ sở. Riêng Liên hiệp công đoàn đã trực tiếp vận động thành lập công đoàn công trường Thủ Đô, công đoàn sơ cấp Nông - lâm nghiệp, công đoàn thợ nề, công đoàn nhà ăn liên cơ quan… với gần 400 đoàn viên .

      Cùng với việc phát triển đoàn viên , xây dựng công đoàn cơ sở Liên hiệp công đoàn còn chú trọng và kiện toàn hệ thống công đoàn nâng cao hiệu quá hoạt động. Trong đó tập trung việc kiện toàn các ban hoạt động, điều chuyển cán bộ giữa Liên hiệp công đoàn với công đoàn Ngành , tổ chức các đợt học tập chính trị , nghiệp vụ để nâng cao trình độ cán bộ . Năm 1956 đã tổ chức được 5 đợt học tập ngắn hạn cho 350 lượt cán bộ , cử đi học tập ở Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và Trường cán bộ Công đoàn Trung ương là 16 đồng chí[56]. Quán triệt chủ trương của Tỉnh uỷ là chú trọng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ người dân tộc , Liên hiệp công đoàn đã phát hiện và bồi dưỡng được 9 đồng chí đưa đi đào tạo ở trường dân tộc nội trú Trung ương và Trường cán bộ Công đoàn Việt Nam .

       Tuy nhiên công tác trên vẫn còn bộc lộ hạn chế như chưa làm thường xuyên, kết nạp đoàn viên công đoàn có nơi còn làm hình thức. Công tác tổ chức cán bộ chưa theo sát với tình hình mới, quán triệt sự chỉ đạo đầy đủ của Tỉnh uỷ và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam còn có lúc chưa kịp thời. Những hạn chế này cũng ảnh hưởng đến hoạt động công đoàn , nhất là trong hoàn cảnh Tuyên Quang là tỉnh Miền núi, có nhiều dân tộc, kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn, đội ngũ cán bộ công đoàn vừa thiếu lại vừa yếu về trình độ năng lực .

        Năm 1957 năm cuối của kế hoạch 3 năm khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh, Tỉnh uỷ Tuyên Quang đã xác định : động viên mọi lực lượng cán bộ, công nhân, viên chức, lao động hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch 3 năm . Tỉnh uỷ đã thành lập các ban chỉ đạo như : Ban chỉ đạo vùng cao, Ban chỉ đạo sản xuất Công – Thương nghiệp, Giao thông vận tải, Ban chỉ đạo sản xuất nông nghiệp , Ban chỉ đạo dân vận, Ban chỉ đạo về công tác tổ chức và cán bộ…nhằm đẩy mạnh sản xuất lương thực, chăn nuôi, khai thác lâm thổ sản, phát triển tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, tăng cường lực lượng mậu dịch quốc doanh, cải thiện đời sống nhân dân .

      Bước vào năm 1957, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã xác định mục tiêu là: “Ra sức thi đua lao động sản xuất , tiết kiệm , chịu đựng gian khổ , vượt qua khó khăn , giành nhiều thắng lợi góp phần hoàn thành kế hoạch 3 năm”[57]. Hoạt động công đoàn có nhiều thuận lợi như có Sự lãnh đạo chặt chẽ của Tỉnh uỷ , của Công đoàn khu tự trị Việt Bắc và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. Đội ngũ công nhân lao động đã ổn định , lực lượng đoàn viên công đoàn đã nhiều hơn năm trước, công đoàn các cấp đã được kiện toàn và hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số khó khăn như tình hình an ninh, chính trị một số nơi chưa ổn định, tư tưởng của một bộ phận công nhân , lao động còn dao động , đời sống của người lao động và của cán bộ công đoàn còn nhiều khó khăn, trình độ năng lực của đa số công nhân , viên chức còn hạn chế.

       Để đưa phong trào công nhân và hoạt động công đoàn tỉnh nhà tiến lên, được sự nhất trí của Tỉnh uỷ và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, sự chỉ đạo trực tiếp của Liên hiệp công đoàn khu tự trị Việt Bắc. Đại hội lần thứ II công đoàn Tuyên Quang đã được tiến hành từ ngày 21 đến ngày 24 tháng 11 năm 1957 tại thị xã Tuyên Quang. Đây là một sự kiện quan trọng đối với phong trào công nhân và hoạt động công đoàn tỉnh nhà , trong thời điểm Tuyên Quang đang phấn đấu hoàn thành kế hoạch 3 năm (1954-1957).

       Đại hội lần thứ II công đoàn Tuyên Quang đã có 125 đại biểu tham dự , đại hội đã đề ra chương trình, nội dung và mục tiêu hoạt động công đoàn , bầu ra Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn, Uỷ ban kiểm tra, bầu đồng chí Nguyễn Văn Tỉnh (uỷ viên ban chấp hành tỉnh uỷ) làm Thư ký và đồng chí Ngô Trọng Toàn làm Phó thư ký Liên hiệp công đoàn tỉnh Tuyên Quang. Có thể nói đại hội lần thứ II công đoàn Tuyên Quang đã tạo nên khí thế phấn khởi trong công nhân, viên chức, lao động tạo không khí phấn khởi quyết tâm phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh tế của tỉnh nhà năm 1957 .

     Trọng tâm hoạt động công đoàn năm 1957 là tổ chức phong trào thi đua trong công nhân, viên chức, lao động . Do vậy Liên hiệp công đoàn đã chỉ đạo công đoàn các cấp , nhất là công đoàn các nhà máy – xí nghiệp , cơ quan tham gia xây dựng kế hoạch sát với thực tế của từng đơn vị . Kết quả là có hơn 85% cơ sở đã làm tốt công tác này , tiêu biểu là công đoàn khối công nghiệp , lâm nghiệp và các cơ quan hành chính sự nghiệp . Khẩu hiệu chung của phong trào thi đua là :“Chất lượng , số lượng , giá thành , đảm bảo kinh doanh có lãi và đặc biệt phải coi trọng chất lượng”[58] . Phong trào thi đua lao động sản xuất của công nhân, viên chức lao động đã góp phần quan trọng để Tuyên Quang hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - văn hoá - xã hội .  Kết thúc kế hoạch 3 năm (1954-1957), tình hình kinh tế - văn hoá - xã hội của Tuyên Quang đã có nhiều thay đổi “Tất cả các chỉ tiêu đề ra của tỉnh đều đạt hoặc vượt mức kế hoạch, đời sống của nhân dân ổn định và bước đầu được cải thiện”[59]. Riêng sản xuất công nghiệp , lâm nghiệp , giao thông vận tải đã có nhiều thành tựu quan trọng, đặt cơ sở để Tuyên Quang tiếp tục thực hiện tốt kế hoạch 3 năm tiếp theo .

      Triển khai các hoạt động công đoàn theo Nghị quyết của Đại hội công đoàn tỉnh lần thứ II , Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn tỉnh và công đoàn trực thuộc đã được củng cố lại . Từng quý Liên hiệp công đoàn tỉnh đều tổ chức giao ban các công đoàn ngành để động viên và uốn nắn cán bộ , đoàn viên hoạt động. Cùng với việc chăm lo xây dựng, kiện toàn tổ chức, Ban Thường vụ liên hiệp công đoàn tỉnh đã chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và sự chỉ đạo của Ban tổ chức tỉnh uỷ Liên hiệp công đoàn Khu tự trị Việt Bắc và Tổng Liên đoàn, Liên hiệp công đoàn đã coi trọng nhiệm vụ đào tạo , sử dụng cán bộ người dân tộc . Trong thời kỳ này , đã đào tạo được 43 cán bộ người dân tộc , góp phần đưa tỷ lệ cán bộ người dân tộc ở Tuyên Quang lên 26% . Bên cạnh đó Liên hiệp công đoàn tỉnh còn mở thêm các lớp bổ túc văn hoá, các lớp học chính trị để nâng cao nhận thức cho cán bộ đoàn viên .

      Ngày 5/11/1957 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 108/SLL-10 ban hành luật Công đoàn do Quốc hội khoá I nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thông qua tại kỳ họp thứ 7, tiếp đó tháng 12/1957, chính phủ nước ta đã quyết định giao cho tổ chức công đoàn Việt Nam điều hành một số hoạt động của bảo hiểm xã hội như nghỉ ngơi dưỡng sức, thai sản, ốm đau, tai nạn lao động tham quan du lịch cho công nhân, viên chức, lao động. Việc công đoàn Việt Nam nhận trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước về quản lý , điều hành sự nghiệp bảo hiểm xã hội là tăng thêm chức năng quản lý nhà nước – xã hội của tổ chức công đoàn . Đây là những điều kiện thuận lợi để tổ chức Công đoàn Việt Nam nói chung và Công đoàn Tuyên Quang nói riêng hoàn thành vai trò, nhiệm vụ của mình.

      Toàn bộ hoạt động công đoàn Tuyên Quang trong năm 1957 nói riêng và cả thời kỳ thực hiện khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh (1954-1957) đã nổi bật ở các vấn đề sau :

Một là : Vai trò và nhiệm vụ của công đoàn các cấp được thể hiện hơn trong việc tổ chức, động viên công nhân, viên chức, lao động thi đua lao động sản xuất, góp phần hoàn thành kế hoạch 3 năm trước thời hạn. Các cấp công đoàn đã vượt qua nhiều khó khăn đề hoàn thành nhiệm vụ của mình .

Hai là : Lực lượng cán bộ công đoàn ở Tuyên Quang còn ít và yếu về trình độ năng lực so với yêu cầu của phong trào công nhân, viên chức , lao động nhưng đã tích cực đi sâu , sát cơ sở , nắm được tâm tư nguyện vọng của đoàn viên . Kịp thời đề xuất với các cấp uỷ Đảng và tham gia với chuyên môn những vấn đề liên quan đến sản xuất , đời sống của người lao động .

Ba là : Trong thời kỳ này , dưới sự lãnh đạo của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam , sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ công tác xây dựng tổ chức công đoàn và phát triển đoàn viên đã có nhiều kết quả. Các cấp công đoàn đã được kiện toàn , số lượng đoàn viên được tăng cường. Đến tháng 12/1957 gần 98% số nhà máy , xí nghiệp, lâm trường và các cơ quan hành chính - sự nghiệp thành lập công đoàn cơ sở , gần 96% công nhân , viên chức lao động là đoàn viên công đoàn . Lực lượng cán bộ công đoàn được tăng thêm về số lượng và chất lượng , hoàn thành được nhiệm vụ chính trị của tổ chức công đoàn.

      Tuy nhiên trong thời gian này, hoạt động công đoàn Tuyên Quang còn có những tồn tại là:

  • Trong chỉ đạo công tác , Liên hiệp công đoàn chưa chủ động và phát hiện một số vấn đề còn vướng mắc trong công nhân, lao động để khắc phục. Công tác lãnh đạo còn lúng túng ở một số khâu, chưa đi sâu sát việc tổ chức đấu tranh chống tham ô, lãng phí và quan liêu . Mối quan hệ phối hợp công tác giữa các cấp công đoàn với các cấp uỷ và chính quyền còn yếu .
  • Lực lượng cán bộ công đoàn tỉnh và nhiều cơ sở còn thiếu , yếu về trình đội năng lực nên ảnh hưởng đến công tác vận động quần chúng , nhất là ở các nông , lâm trường , nơi có khá nhiều công nhân , lao động là người dân tộc. Ngay tại cơ quan liên hiệp công đoàn chỉ có 5 cán bộ chủ chốt , trực tiếp chỉ đạo 39 công đoàn trực thuộc với 3000 đoàn viên[60] .

     Với tất cả những vấn đề trên , Ban chấp hành liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã kiểm điểm nghiêm túc trong hội nghị cuối năm 1957 . Qua đó đề xuất nhiều chủ trương , biện pháp để khắc phục và phát huy hơn nữa vai trò , vị trí của tổ chức công đoàn trong kế hoạch 3 năm 1958 – 1960 .

2 . Phong trào công nhân, công đoàn trong kế hoạch ba năm cải tạo và phát triển kinh tế (1958-1960):

       Công cuộc khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh của miền Bắc nói chung và Tuyên Quang nói riêng đã hoàn thành cơ bản, miền Bắc bước vào thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế - văn hoá xã hội chủ nghĩa . Hội nghị lần thứ 14 , ban chấp hành trung ương Đảng đã chủ trương : “Đẩy mạnh cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân , thợ thủ công và cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh”[61]. Hội nghị đã nêu lên 3 nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 3 năm ( 1958 – 1960 ), trong đó nhiệm vụ trọng tâm là cải tạo xã hội chủ nghĩa.

       Bước vào kế hoạch 3 năm (1958 – 1960), Ban chấp hành Tỉnh uỷ đã xác định mục tiêu của kế hoạch này là : “Ra sức củng cố và phát huy những thành tích đạt được trong 3 năm , đồng thời tuỳ từng mặt , từng vùng có kế hoạch phát triển lên một bước , nhằm không ngừng cải thiện , nâng cao dần đời sống kinh tế , chính trị và văn hoá của các dân tộc thêm một bước , chuẩn bị về tư tưởng , về tổ chức và vật chất để tạo điều kiện thuận lợi góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và góp phần vào công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà”[62]. Là một tỉnh miền núi do vậy Tỉnh uỷ xác định lấy sản xuất nông – lâm nghiệp làm cơ bản, sản xuất nông nghiệp phải đảm bảo đủ ăn, có dự trữ và tiến tới giảm bớt, xoá bỏ nạn đói giáp hạt ở vùng cao, vùng xa nơi có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống .

       Để hoàn thành bước đầu kế hoạch 3 năm ( 1958 – 1960 ) , Tỉnh uỷ Tuyên Quang đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể cho quân và dân trong tỉnh là :

  • Tích cực mở mang thuỷ lợi, tăng thêm diện tích cấy cày, tổ chức khai hoang hợp lý , bảo vệ diện tích rừng .
  • Bước đầu cải tạo nền kinh tế tiểu nông, hướng dẫn nông dân vào con đường làm ăn tập thể, đưa nông dân lao động tiến lên chủ nghĩa xã hội.
  • Tiến hành cải tạo công, thương nghiệp Tư bản tư doanh, cải tạo buôn bán nhỏ và tiểu thủ công nghiệp.

     Cùng với nhân dân toàn tỉnh, đội ngũ công nhân , viên chức , lao động và công đoàn Tuyên Quang bước vào thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Quán triệt sự chỉ đạo của Thường vụ Tỉnh uỷ, Liên hiệp công đoàn tỉnh xác định nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động công đoàn các cấp là :

  • Tổ chức và động viên công nhân, viên chức, lao động thi đua lao động sản xuất, hoàn thành vượt mức kế hoạch của đơn vị cơ quan, công – nông lâm trường.
  • Phát huy tính chủ động và tinh thần xã hội chủ nghĩa, của tập thể và cá nhân cán bộ công nhân viên chức .
  • Phát huy sáng kiến cải tiến kĩ thuật , giữ gìn máy móc , bảo vệ tài sản cơ quan, xí nghiệp , nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm .
  • Tích cực ủng hộ nông dân trong xây dựng hợp tác xã , thi đua phục vụ tốt sản xuất nông nghiệp .

     Trên cơ sở những nhiệm vụ đề ra, các cấp công đoàn phải tăng cường giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho đội ngũ công nhân , lao động . Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước. Thông qua đó, củng cố tổ chức công đoàn , hướng phong trào công nhân, viên chức, lao động phục vụ đắc lực nhiệm vụ cải tạo và phát triển kinh tế. Năm 1958, Tuyên Quang đã tổ chức lễ kết nghĩa với tỉnh Bình Thuận và với tỉnh Ninh Bình anh em. Từ đây nhiều nội dung thi đua của công nhân, viên chức lao động đã mang lại hiệu quả rõ rệt, thể hiện tình đoàn kết với công nhân, lao động tỉnh Bình Thuận và tỉnh Ninh Bình.

      Năm 1958 phong trào thi đua lao động sản xuất, do các cấp công đoàn tổ chức đã đem lại nhiều kết quả thiết thực . Theo lời kêu gọi thi đua của Chủ tịch Hồ Chí Minh là : “Sản xuất phải nhanh , nhiều , tốt , rẻ ”, nhiều đơn vị đã hoàn thành kế hoạch kinh tế trước thời hạn, năng suất lao động cao và thực hành tiết kiệm tốt . Tiêu biểu là J – 63 năng suất lao động đạt 117,5%, lãi đạt 82.800 đ, sản lượng cao hơn năm 1957 là 61 %; Nông trường sông Lô đạt sản lượng vượt 25% so với năm trước; Ngành bưu điện tăng 106%; Ngành lâm nghiệp sản xuất tăng từ 115% lên 117%; Ngành thương nghiệp tăng 132%. Trong năm 1958 việc tiết kiệm trong sản xuất của công nhân, viên chức đã làm lợi cho Nhà nước gần 10.000.000đ[63] và hơn 1 vạn ngày công làm thêm của các nông lâm trường .

      Bên cạnh phong trào thi đua tăng năng suất lao động và thực hành tiết kiệm, phong trào phát huy sáng kiến, cải tiên kỹ thuật cũng được đẩy mạnh. Thông qua đó phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm của người lao động. Năm 1958 công nhân, viên chức, lao động đã có gần 600 sáng kiến cải tiến kĩ thuật, làm lợi cho Nhà nước hàng chục triệu đồng và cải thiện điều kiện lao động . Đó là các sáng kiến trong sản xuất nông cụ ( xẻng , cày , bừa ) , trong sản xuất vật liệu (vôi , gạch), trong thu hái các sản phẩm ở các lâm trường (cà phê, lạc, chè…), trong tận dụng nguyên liệu gỗ - xi măng ; trong thông tin liên lạc và trong giao thông vận tải. Các công đoàn cơ sở làm tốt việc này là Công đoàn giao thông, Công đoàn ngành xây dựng, Công đoàn nông trường sông Lô và công trường 14, Công đoàn bưu điện và công đoàn hành chính - sự nghiệp khác.

       Công tác chăm lo , bảo vệ đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn được chú ý. Trên cơ sở luật công đoàn, luật lao động và những quy định bước đầu về bảo hiểm xã hội, Liên hiệp công đoàn đã kiến nghị với Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính thực hiện kịp thời mọi chế đội đối với người lao động . Năm 1958 chi về lương, bảo hiểm xã hội và bảo hộ lao động trên địa bàn Tuyên Quang đã đạt 105% kế hoạch đề ra. Lĩnh vực nhà ở, nhà ăn, nhà trẻ và các công trình phúc lợi khác đã được chú ý . Hơn 80% đơn vị có nhà ăn tập thể, 53% có nhà trẻ, hơn 86% công nhân , lao động đã có nơi ăn , chốn ở để an tâm công tác. Thực hiện vai trò của mình công đoàn các cấp đã tích cực tham gia với chính quyền , với chuyên môn trong việc chăm lo đời sống cho công nhân , lao động .

      Nhằm nâng cao trình độ văn hoá cho công nhân, viên chức các cấp công đoàn đã phối hợp với cơ quan chuyên môn, tổ chức nhiều lớp học văn hoá nhằm, thanh toán nạn mù chữ và phổ cập văn hoá từ lớp 1 đến lớp 7. Số lượng học viên là công nhân, lao động đi học, chiếm gần 60% tổng số học viên các lớp học văn hoá buổi tối. Năm 1958 công đoàn cơ sở đã mở được 125 lớp học văn hoá ngoài giờ, thu hút gần 6000 công nhân lao động theo học . Riêng đối với cán bộ công đoàn thì Liên hiệp công đoàn tỉnh đã tổ chức 16 lớp học văn hoá cho 453 cán bộ, công nhân viên đạt trình độ văn hoá lớp 7 . Ngoài ra được sự giúp đỡ của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam và Liên hiệp công đoàn khu tự trị Việt Bắc, Liên hiệp công đoàn tỉnh đã mở 6 đợt bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ công đoàn chủ chốt cho các đơn vị trực thuộc .

       Tháng 5/1958, Tỉnh uỷ Tuyên Quang ra chỉ thị số 09/CT-TQ chỉ rõ : Phải phát động một phong trào thi đua sản xuất tiết kiệm thật rộng lớn, mạnh mẽ, động viên toàn Đảng, toàn dân phấn đấu hoàn thành vượt mức sản xuất…đẩy mạnh công tác Tuyên truyền giáo dục, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và phối hợp công tác giữa các ngành, đoàn thể . Tháng 6 năm 1958, Thường vụ Tỉnh uỷ điều động đồng chí Ngô Trọng Toàn về làm quyền Thư ký Liên hiệp công đoàn thay đồng chí Nguyễn Văn Tỉnh đi nhận công tác khác.

      Quán triệt sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ trong 6 tháng cuối năm 1958 hoạt động Công đoàn tỉnh tập trung vào việc tổ chức, động viên công nhân , viên chức phấn đấu hoàn thành kế hoạch của đơn vị , góp phần hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế. Khẩu hiệu thi đua sản xuất “ nhiều, nhanh, tốt, rẻ” đã được các cấp công đoàn biến thành hành động cụ thể . Đến tháng 12/1958 hơn 95% đơn vị đã hoàn thành kế hoạch đề ra, toàn tỉnh đã tiết kiệm được 100 triệu đồng về nguyên liệu. Hưởng ứng ngày lao động xã hội chủ nghĩa “Vì miền Nam ruột thịt” , công đoàn cơ sở đã vận động công nhân làm thêm gần 11.000 ngày công , dành tiền cho các hoạt động công ích .

        Năm 1958, phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn Tuyên Quang góp phần quan trọng vào nhiệm vụ cải tạo và phát triển kinh tế của tỉnh nhà. Đến hết năm 1958, trên lĩnh vực cải tạo Xã hội chủ nghĩa, Tuyên Quang đã tổ chức được 20.034 hộ dân vào tổ đổi công (hoặc hợp tác xã cấp thấp). Đây là cơ sở cho công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp theo phương châm “thận trọng, tiến bước vững chắc”. Cũng trong năm này công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh , tiểu thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ ở Tuyên Quang được tiến hành vững chắc với phương châm “dựa hẳn vào công nhân, lao động và tổ chức công đoàn”. Đến cuối năm 1958 Tuyên Quang đã hoàn thành hơn 70% công việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Liên hiệp công đoàn đã tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng về quan điểm chủ trương và biện pháp của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ công đoàn, đồng thời cử 120 lượt người tham gia vào công cuộc cải tạo Xã hội chủ nghĩa ở Tuyên Quang .

      Cùng với công cuộc cải tạo đã cơ bản hoàn thành, Tuyên Quang đã có bước phát triển về kinh tế, văn hoá, xã hội trong năm đầu của kế hoạch này. Năm 1958, vượt qua nhiều khó khăn, Tuyên Quang đã sản xuất được gần 50.000 tấn lương thực quy thóc, 12.394 tấn hoa màu, 10.000 tấn sản phẩm cây công nghiệp, chăn nuôi 5 vạn trâu bò và 9 vạn con lợn. Sản xuất công nghiệp đạt 104% kế hoạch, giao thông vận tải đạt 118%, thương nghiệp đạt 112%, văn hoá, giáo dục, y tế đều tăng trưởng [64]. Đã cải thiện đời sống nhân dân, nhất là đời sống của đồng bào các dân tộc. Những thành tựu này có sự đóng góp rất lớn của đội ngũ công nhân, lao động và các cấp công đoàn dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ và Liên hiệp công đoàn khu Việt Bắc.

      Đại hội đại biểu Đảng bộ Tuyên Quang lần thứ II được tổ chức từ ngày 30/1 đến ngày 5/2/1959 . Đại hội đã chỉ rõ mục tiêu của Tuyên Quang trong kế hoạch 3 năm giai đoạn 1958-1960 là “Thực hiện nhiệm vụ cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá , phải theo phương châm vừa làm vừa rút kinh nghiệm và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ , phải làm với tinh thần mạnh dạn, khần trương nhưng vững chắc không dè dặt , nhưng cũng không hấp tấp, nóng vội , vừa làm vừa chuẩn bị điều kiện , tạo cơ sở đến năm 1960 tiến lên hoàn thành về căn bản nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa ở trong tỉnh”[65]. Đại hội nhấn mạnh đến việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các đoàn thể , đẩy mạnh việc giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ Đảng viên . Riêng đối với tổ chức công đoàn, Ban chấp hành Tỉnh uỷ chủ trương tổ chức Đại hội Liên hiệp công đoàn Tuyên vào năm 1959 .

     Bước vào năm 1959, phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn Tuyên Quang có nhiều thuận lợi cơ bản như : kinh tế , xã hội của Tuyên Quang đã đạt được thành tựu quan trọng trong giai đoạn 1954 – 1958, hầu hết các chỉ tiêu đặt ra đều thực hiện được . Đời sống của nhân dân được cải thiện nhất là đối với đồng bào các dân tộc. Riêng đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã có sự phát triển về số lượng, được củng cố về từ tỉnh xuống cơ sở. Đầu năm 1959 số lượng công nhân viên chức ở Tuyên Quang đã tăng lên 11% so với năm 1958, chủ yếu là ở các nhà máy, xí nghiệp, Nông lâm trường quốc doanh. Số đoàn viên công đoàn đã tăng thêm 12,6 % và chiếm 87% tổng số cán bộ, công nhân viên chức toàn tỉnh. Được sự giúp đỡ của Tổng liên đoàn và Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, công tác tổ chức của công đoàn được củng cố và kiện toàn. Lực lượng cán bộ được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, Chính quyền, Liên hiệp công đoàn đã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và điều chuyển một số cán bộ sang tăng cường cho Tỉnh uỷ và các đoàn thể một số cán bộ. Riêng cơ quan Liên hiệp công đoàn tỉnh từ năm 1957 đến đầu năm 1959, đã có 6 đồng chí lãnh đạo chuyển công tác khác. Tháng 9/1959, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã quyết định điều động đồng chí Lương Quang Mai, Tỉnh uỷ viên trực tiếp làm thư ký, kiêm bí thư Đảng đoàn Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang thay đồng chí Nguyễn Đức Tính đi nhận công tác khác. Ngoài ra tỉnh còn điều động một số đồng chí trong Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn công tác ở tỉnh uỷ và các đoàn thể.

    Quán triệt nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II, Ban Thường vụ Liên hiệp công đoàn đã xác định nhiệm vụ chủ yếu hoạt động công đoàn năm 1959 là: tổ chức các phong trào thi đua, lao động sản xuất trong công nhân, viên chức, góp phần hoàn thành nhiệm vụ cải tạo và phát triển kinh tế; chuẩn bị mọi điều kiện tiến tới Đại hội công đoàn các cấp. Trong hoạt động công đoàn cần góp sức to lớn vào nhiệm vụ Hợp tác hoá nông nghiệp, tăng cường liên minh công – nông và vận động đồng bào dân tộc ít người.

     Có thể nói năm 1959 được sự quan tâm của Tổng liên đoàn và sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ , hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã hoàn thành cơ bản các việc đề ra. Trong lĩnh vực công nghiệp, giao thông vận tải, thương nghiệp…các cấp công đoàn tổ chức nhiều phong trào thi đua tăng năng suất, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật , tiết kiệm và hạ giá thành sản phẩm. Hầu hết các nhà máy , xí nghiệp , nông – lâm trường và các cơ quan hành chính sự nghiệp đều đăng ký thi đua và hoàn thành trước thời hạn . Đến tháng 11/1959 đã có 12 ngành và đơn vị hoàn thành kế hoạch năm 1959, tiết kiệm được 45.000.000đ[66].

     Bên cạnh việc tổ chức các phong trào thi đua, các hoạt động đời sống, tuyên truyền giáo dục, nữ công, xây dựng tổ chức công đoàn, vận động sản xuất nông nghiệp có nhiều chuyển biến . Để giúp đỡ nông dân, nhiều nhà máy, xí nghiệp đã chế tạo các loại nông cụ phục vụ sản xuất. Đến tháng 11/1959 công nhân, lao động các nhà máy, xí nghiệp đã sản xuất hàng chục ngàn cày, bừa và các loại nông cụ đưa về nông thôn. Thương nghiệp đã đưa về nông thôn hơn 3 vạn tấn phân bón các loại…Những hoạt động này , đã góp phần đưa sản xuất nông nghiệp Tuyên Quang chuyển biến và tăng cường liên minh công – nông . Quán triệt sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Liên hiệp công đoàn đã tổ chức được gần 650 lượt cán bộ, công nhân, viên chức về thôn , bản vận động nông dân tham gia vào hợp tác xã nông nghiệp . Nhằm thực hiện nội dung cải cách dân chủ , Ban thường vụ Công đoàn tỉnh đã chỉ đạo các cấp công đoàn tham gia công tác bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp , xây dựng đời sống mới ; vận động bà con thôn bản tham gia các lớp bình dân học vụ để “Biết đọc, biết viết cái chữ của Bác Hồ”.

            Trong chín tháng đầu năm 1959, phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn Tuyên Quang đã góp phần hoàn thành những chỉ tiêu do Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra. Trong sản xuất công nghiệp hầu hết các đơn vị đều hoàn thành kế hoạch đã đề ra, toàn tỉnh đã có gần 950 sáng kiến kĩ thuật, năng suất lao động đã tăng lên 12% và nhiều sản phẩm đảm bảo được chất lượng, hạ giá thành. Đến tháng 9/1959 đã có 12 đơn vị hoàn thành kế hoạch cả năm . Nổi bật là đơn vị B2 ở ty giao thông và công trường 14 - Trần Phú, đã đưa năng suất lao động tăng lên 25%. Cũng trong thời gian này Tổng liên đoàn lao động Việt Nam phát động phong trào thi đua lao động sản xuất “Ngày thứ Bảy đẩy mạnh đấu tranh thống nhất nước nhà” và phong trào “Phấn đấu trở thành người lao động tiên tiến, đơn vị tiên tiến”. Hưởng ứng các phong trào này, Liên hiệp công đoàn tỉnh đã chỉ đạo Công đoàn các công – nông – lâm trường, nhà máy, xí nghiệp, các ngành tích cực tham gia. Phong trào đã động viên được hàng vạn cán bộ, công nhân lao động trong tỉnh tham gia với mục tiêu là: hoàn thành kế hoạch kinh tế năm 1959 và lập thành tích chào mừng Đại hội Công đoàn tỉnh lần thứ III .

         Đại hội Công đoàn tỉnh Tuyên Quang lần thứ III được tiến hành từ ngày 23 đến ngày 27/11/1959 tại thị xã Tuyên Quang. Tham dự Đại hội có 135 đồng chí, đại diện cho hàng vạn công nhân, viên chức lao động Tuyên Quang. Đồng chí Nguyễn Xuân Việt, Bí thư Tỉnh uỷ, đồng chí Nguyễn Công Hoà uỷ viên Thường vụ Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam cũng về dự Đại hội. Đại hội Công đoàn tỉnh Tuyên Quang lần thứ III đã tổng kết, đánh giá các mặt hoạt động của Công đoàn tỉnh như :

  • Phong trào thi đua yêu nước xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà .
  • Công tác chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho đoàn viên và người lao động .
  • Công tác tuyên truyền giáo dục đoàn viên .
  • Công tác xây dựng và củng cố tổ chức Công đoàn .
  • Tham gia phục vụ sản xuất nông nghiệp .

         Đại hội đã bầu Ban chấp hành gồm 15 đồng chí Uỷ viên chính thức, 2 Uỷ viên dự khuyết, đồng chí Ngô Trọng Toàn được bầu làm Thư ký và đồng chí Nguyễn Văn Khoa làm Phó thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh . Đại hội đã quán triệt nhiệm vụ của phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam đề ra là : “tăng cường đoàn kết , ra sức học tập nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa , phát huy đầy đủ vai trò trách nhiệm và chủ nhân đất nước , đẩy mạnh thi đua hoàn thành kế hoạch 3 năm , cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá , đồng thời phải đẩy mạnh đấu tranh thực hiện quan hệ bình thường Bắc – Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh giành thống nhất nước nhà”[67]. Trên cơ sở đó, Đại hội đề ra nhiệm vụ cụ thể của phong trào Công đoàn tỉnh Tuyên Quang năm 1960 là :

  • Tổng kết phong trào thi đua 1959 , rút ra bài học kinh nghiệm phát huy cao hơn cho năm 1960 .
  • Phong trào thi đua hướng vào phương châm : nhanh , nhiều , tốt , rẻ ; cải tiến và sửa đổi lề lối làm việc , chấp hành mọi chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước .
  • Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục tư tưởng , chính trị cho công nhân , viên chức , lao động ,
  • Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất , tinh thần cho quần chúng công nhân , lao động .
  • Củng cố tổ chức Công đoàn , phát triển lực lượng đoàn viên[68].

        Đại hội Công đoàn tỉnh Tuyên Quang lần thứ III đã thành công tốt đẹp. Đại hội đã chỉ ra được các ưu điểm , hạn chế của phong trào công nhân và hoạt động công đoàn tỉnh. Đại hội Công đoàn tỉnh có ý nghĩa quan trọng là động viên công nhân , lao động tiếp tục thi đua lao động sản xuất , góp phần hoàn thành kế hoạch 3 năm cải tạo – phát triển kinh tế (1958-1960).

         Bước sang năm 1960, năm có nhiều sự kiện lịch sử quan trọng như : kỷ niệm 30 năm ngày Đảng ta ra đời ; 70 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; 15 năm ngày thành lập nước và là năm kết thúc kế hoạch 3 năm (1958-1960); kế hoạch chuẩn bị để miền Bắc nói chung và Tuyên Quang nói riêng, bước vào công nghiệp hoá XHCN.

        Tháng 2/1960 , Ban chấp hành Tỉnh uỷ Tuyên Quang họp hội nghị mở rộng xác định; năm 1960 tỉnh phải hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của kế hoạch 3 năm 1958 – 1960, trọng tâm là hoàn thành nhiệm vụ cải tạo XHCN với việc hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, trên cơ sở đó phát triển một bước kinh tế của tỉnh nhà. Đây là một nhiệm vụ nặng nề, song tạo ra một bước chuyển biến quan trọng ở Tuyên Quang trong năm cuối cùng của kế hoạch 3 năm. Do vậy Đảng bộ tỉnh đã xác định phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền , các đoàn thể . Các cấp uỷ Đảng phải tập trung lãnh đạo để hoàn thành nhiệm vụ cải tạo và hợp tác hoá nông nghiệp phải coi hợp tác hoá nông nghiệp là nhiệm vụ cấp bách.

        Bước vào năm 1960 đội ngũ công nhân , viên chức , lao động của Tuyên Quang đã phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lượng . Đây cũng là kết quả sự phát triển kinh tế của tỉnh nhà trong kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế. Theo thống kê đến đầu năm 1960 Tuyên Quang đã có hơn 12.000 công nhân, viên chức, lao động …Đa số tuổi đời còn trẻ , có ý thức giác ngộ chính trị, yêu Chủ nghĩa xã hội . Bên cạnh đó , đội ngũ cán bộ , viên chức làm việc trong các cơ quan Đảng , chính quyền , các đoàn thể và các cơ quan hành chính sự nghiệp như giáo dục , y tế … ngày càng được tăng cường .

     Quán triệt sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và của Liên hiệp công đoàn khu tự trị Việt Bắc, Ban thường vụ Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã triển khai các hoạt động Công đoàn của năm 1960 . Trong đó tập trung việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội, hoàn thành vượt mức kế hoạch 3 năm 1958 – 1960 . Qua đó lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn , chào mừng Đại hội Đảng lần thứ III và Đại hội lần thứ II Công đoàn Việt Nam .

     Bước vào năm 1960 , Liên hiệp Công đoàn Tuyên Quang có nhiều thay đổi, đó là lực lượng đoàn viên được tăng cường về số lượng nâng cao một bước về chất lượng công tác tổ chức được củng cố và kiện toàn, đội ngũ cán bộ Công đoàn có bước phát triển. Theo thống kê đến đầu năm 1960 số lượng đoàn viên Công đoàn Tuyên Quang đã có gần 9000 đoàn viên, chiếm 65% tổng số công nhân, viên chức, lao động. Liên hiệp công đoàn tỉnh trực tiếp quản lý 42 công đoàn thuộc địa phương và ngành ; toàn tỉnh có 469 công đoàn cơ sở , 95 công đoàn bộ phận[69]. Số cán bộ công đoàn chuyên trách có 125 người , trong đó có gần 60% đạt trình độ cấp III trở lên ; 15 đồng chí được đào tạo, bồi dưỡng ở Trường cán bộ Công đoàn Hoàng Quốc Việt , 32 đồng chí là người dân tộc .

     Năm 1960 , năm cuối cùng của kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế , hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế , văn hoá , xã hội đã đề ra . Trên mặt trận cải tạo quan hệ sản xuất , Tuyên Quang đã hoàn thành căn bản hợp tác hoá nông nghiệp . Toàn tỉnh đã có 770 hợp tác xã nông nghiệp thu hút hơn 84,31% số hộ nông dân tham gia . Cùng với hợp tác hoá nông nghiệp là việc xây dựng các công trình thuỷ lợi tưới tiêu, đường sá, nhà vệ sinh, trường học được đẩy mạnh, tạo nên sự thay đổi lớn ở khu vực nông thôn. Trong cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh đến tháng 10/1960 Tuyên Quang đã hoàn thành cơ bản. Tỉnh đã điều động 29 cán bộ chủ chốt thuộc Đảng, chính quyền và đoàn thể đi chỉ đạo và tham gia cải tạo công thương nghiệp tư bản, tư doanh. Toàn tỉnh đã tổ chức đựoc 34 cuộc họp, học tập có hơn 4300 người tham dự về cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Kết quả hầu hết các hộ Tư sản, Tiểu thương…đều tự nguyện tham gia và chuyển sang cách làm ăn mới ; hàng ngàn công nhân lao động trong các cơ sở kinh tế Tư bản, tư doanh được giải phóng. Cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh đã làm chuyển biến tư tưởng của quần chúng lao động, nâng cao ý thức, giác ngộ XHCN trong nhân dân. Nhìn chung đến cuối năm 1960, Tuyên Quang đã hoàn thành cải tạo XHCN, xây dựng chế độ sở hữu XHCN bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, xoá bỏ chế độ bóc lột, xác lập quan hệ sản xuất mới.

         Trong nhiệm vụ cải tạo, hoạt động Công đoàn đã tập trung vào việc tổ chức, tập hợp công nhân, lao động tham gia vào cải tạo công thương nghiệp tư bản, tư doanh. Liên hiệp công đoàn đã cử hơn 400 lượt cán bộ đi làm công tác cải tạo ở các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền. Quán triệt chủ trương của Tỉnh uỷ là: Tuyên truyền, vận động giới chủ tự nguyện chấp hành chính sách cải tạo, đồng thời tổ chức cho công nhân, viên chức, lao động đấu tranh tạo nên áp lực chính trị đối với giai cấp tư sản, hạn chế việc dùng biện pháp hành chính. Thực hiện chính sách đoàn kết, đồng thời phân hoá giai cấp ở thành thị. Với chủ trương này, Liên hiệp công đoàn đã chỉ đạo công đoàn các cấp tổ chức gần 100 buổi tuyên truyền về chính sách cải tạo, lôi cuốn hàng ngàn công nhân , lao động tham gia. Kết quả là ở các cơ sở cải tạo tổ chức công đoàn đã vận động giới chủ tổ chức đều hoàn thành nhiệm vụ đặt ra , tất cả các chủ doanh nghiệp tự nguyện tham gia cải tạo. Tại các cơ sở cải tạo, Công đoàn đã góp phần nâng cao ý thức giác ngộ giai cấp cho công nhân, lao động, tổ chức kết nạp thêm nhiều đoàn viên [70].

     Năm 1960 phong trào thi đua của công nhân , viên chức được Liên hiệp công đoàn phát động và diễn ra sôi nổi trong các công, nông, lâm trường và nhà máy, xí nghiệp . Với khẩu hiệu phấn đấu hoàn thành kế hoạch năm 1960 và kế hoạch 3 năm trước thời hạn. Công nhân, viên chức Tuyên Quang đã cố gắng nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Kết quả nổi bật của phong trào thi đua XHCN năm 1960 đã có 22 đơn vị hoàn thành kế hoạch 3 năm và kế hoạch năm 1960 trước thời hạn từ 6 đến 126 ngày ; Hầu hết các đơn vị sản xuất, cơ quan trong tỉnh đều đạt từ 100 đến 130% kế hoạch đã đề ra . Trong đó có các đơn vị và ngành tiêu biểu như :

                Ngành giao thông               126 ngày

                Ngành bưu điện                    93 ngày

                Nông trường sông Lô           5 tháng

                Nông trường Trần Phú         35 ngày

                Ngành giáo dục                    125% (số trường học mới)

                Ngành y tế                            112% định mức khám chữa bệnh đề ra

     Phong trào thi đua của công nhân , viên chức lao động do công đoàn các cấp phát động đã đạt được nhiều kết quả quan trọng , góp phần vào thành tựu chung của tỉnh trong kế hoạch 3 năm 1958 – 1960. Kết thúc kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của Tuyên Quang đã tăng 87,5% so với năm 1957; trong đó công nghiệp quốc doanh địa phương đã chiếm 43,5% ; công nghiệp Tuyên Quang đã phát triển thêm 6 ngành mới . Với sự phát triển của công nghiệp , thủ công nghiệp đến tháng 12/1960 đội ngũ công nhân, viên chức, lao động Tuyên Quang đã tăng lên gần 1,6 vạn trong đó có 57% là công nhân trẻ và trưởng thành từ sau năm 1954 .

    Công tác chăm lo đời sống cho công nhân, viên chức, lao động của công đoàn các cấp đã có nhiều chuyển biến. Với trách nhiệm là tổ chức đại diện và chăm lo đời sống cho công nhân, viên chức, lao động, công đoàn các cấp đã có nhiều cố gắng trong công tác đời sống. Từ năm 1954 đến 1960, nhà nước đã có 2 đợt tăng lương và điều chỉnh lương cho công nhân, viên chức, lao động. Liên hiệp công đoàn đã chỉ đạo các cấp công đoàn, ngành phối hợp với chuyên môn, chính quyền làm tốt công tác lương, thưởng. Kết quả là năm 1960 tiền lương thực tế của công nhân, viên chức đã tăng lên 19,5% so với năm 1958. Bên cạnh tiền lương , Liên hiệp công đoàn còn tham gia với các ngành công nghiệp, lao động …định rõ mức tiền thưởng và các khoản phụ cấp khác cho công nhân, lao động. Là một tỉnh miền núi còn rất nhiều khó khăn về kinh tế , về giao thông đi lại , Liên hiệp công đoàn đã đề xuất với Uỷ ban hành chính tỉnh trợ cấp đi lại cho công nhân, lao động . Đặc biệt là trợ cấp cho những công nhân, lao động người dân tộc, gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống . Ngoài ra từ năm 1960 căn cứ vào chính sách của Đảng , nhà nước và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam , Liên hiệp công đoàn đã đề xuất việc trợ cấp cho cán bộ công đoàn đi công tác ở vùng sâu , vùng xa .

      Công tác giáo dục chính trị tư tưởng và nâng cao trình độ văn hoá cho công nhân, viên chức, lao động của công đoàn đã góp phần xây dựng phát triển đội ngũ công nhân, lao động. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, sự giúp đỡ của các cấp, các ngành, Liên hiệp công đoàn đã xác định: nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng của công đoàn là phải nâng cao ý thức giác ngộ Xã hội chủ nghĩa, xây dựng người công nhân, viên chức có tinh thần tập thể “Mình vì mọi người”. Qua đó rèn luyện tính tiên phong, nâng cao trình độ văn hoá, nghiệp vụ cho công nhân, viên chức, lao động .

    Trong giáo dục chính trị tư tưởng, các cấp công đoàn đã tổ chức hàng trăm cuộc nói chuyện, tuyên truyền chính trị vào các chủ đề về Đảng, về giai cấp công nhân và các ngày lễ lớn của năm 1960. Bên cạnh đó, các hoạt động văn hoá, văn nghệ , thể dục - thể thao , báo chí phát thanh đã được Liên hiệp công đoàn tỉnh phát động, lôi cuốn hàng vạn lượt người tham gia. Riêng năm 1960, Ban tuyên giáo Liên hiệp công đoàn đã tổ chức được 11 đội văn nghệ quần chúng , biểu diễn hơn 100 buổi ở các nhà máy, xí nghiệp . Phong trào đọc sách báo do Liên hiệp công đoàn phát động theo tinh thần cuốn sách “Người với người là bạn” đã được hầu hết công nhân , viên chức, lao động hưởng ứng . Liên hiệp công đoàn đã trích quỹ tặng thưởng 13 chiếc rađiô cho các đơn vị có thành tích trong công tác giáo dục , tư tưởng.

        Công tác giáo dục chính trị tư tưởng của công đoàn đã nâng cao ý thức công dân xã hội chủ nghĩa của công nhân, lao động. Qua đó động viên mọi người tham gia xây dựng chính quyền , xây dựng chế đội xã hội chủ nghĩa . Trong điều kiện Tuyên Quang là tỉnh có nhiều dân tộc , ý thức giác ngộ chính trị của nhân dân chưa thể bằng các nơi khác, nên việc động viên đội ngũ công nhân, lao động đi đầu trong các hoạt động chính trị, xã hội là rất quan trọng . Tháng 5/1959 Tuyên Quang đã tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp . Toàn tỉnh đã có hơn 93,64% cử tri đi bầu cử và bầu hơn 2700 đại biểu hội đồng nhân dân . Riêng khối cán bộ, công nhân, viên chức thì công đoàn đã vận động được hơn 99,3% cử tri đi bầu. Trong cuộc bầu cử Quốc hội khoá II (1960), công đoàn các cấp vận động mọi cử tri là công nhân, viên chức, lao động tích cực tham gia. Đoàn đại biểu Quốc hội khoá II của Tuyên Quang có 4 vị là Hồ Đắc Di, Ninh Văn Bình , Quan Ngọc Thuyết và Bàn Chi Hàm .

       Sự phát triển của đội ngũ công nhân, viên chức, lao động đưa công tác xây dựng tổ chức công đoàn hướng theo vừa phát triển về số lượng, lại vừa tăng cường về chất lượng. Tháng 1/1960 Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn tỉnh họp bàn về công tác xây dựng tổ chức đã nhấn mạnh các việc sau đây:

  • Xây dựng tổ chức công đoàn phải chú ý đến các cơ sở sản xuất mới , đến khu vực hành chính, các xí nghiệp công tư hợp doanh .
  • Tích cực đào tạo cán bộ công đoàn bằng cách đưa đi học tập ở các trường Đảng, Trường cán bộ công đoàn khu tự trị Việt Bắc và của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
  • Tích cực mở các lớp chuyên đề , bồi dưỡng tại chỗ cho cán bộ công đoàn cơ sở  .
  • Phát hiện và tạo nguồn cán bộ công đoàn từ cơ sở để bổ sung cho công đoàn cấp trên .

      Nhiệm vụ xây dựng tổ chức công đoàn đã đạt được nhiều kết quả nhất định, trong đó công tác phát triển đoàn viên, xây dựng công đoàn cơ sở đã có nhiều chuyển biến. Nhiều cơ sở đã có tỷ lệ đoàn viên chiếm tới 85% số công nhân, viên chức. Riêng năm 1960, các cấp công đoàn đã kết nạp được gần 1060 đoàn viên, thành lập được 30 công đoàn cơ sở và hàng trăm tổ công đoàn. Trong chỉ đạo phát triển đoàn viên và xây dựng công đoàn cơ sở, Ban tổ chức Liên hiệp công đoàn tỉnh đã cử nhiều cán bộ - chuyên viên xuống tận cơ sở tìm hiểu thực tế, khắc phục các thiếu sót trong việc kết nạp đoàn viên . Hàng tháng, hàng quý đều có những đánh giá về kết quả thực hiện . Ban thường vụ Liên hiệp công đoàn tỉnh đã chỉ đạo các cấp công đoàn cải tiến phương pháp làm việc, đi sâu vào sản xuất và bám sát cơ sở, kịp thời phát hiện những vướng mắc trong các hoạt động công đoàn .

    Hoạt động công đoàn Tuyên Quang năm 1960 đã tranh thủ sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, sự giúp đỡ, cộng tác của các cấp chính quyền và đoàn thể trong Mặt trận Tổ quốc. Đặc biệt là sự phối hợp với Đoàn thanh niên lao động tỉnh[71], trong việc giáo dục, rèn luyện lực lượng công nhân, viên chức là thanh niên . Trong đội ngũ công nhân, viên chức, lao động Tuyên Quang có hơn 50% ở lứa tuổi thanh niên. Do đó việc tuyên truyền và giáo dục chính trị tư tưởng cho công nhân, viên chức trẻ rất quan trọng . Năm 1960 Ban thường vụ Liên hiệp công đoàn và Ban thường vụ Đoàn thanh niên đã có nghị quyết liên tịch về xây dựng và phát triển đoàn viên công đoàn trong các nhà máy , xí nghiệp, cơ quan. Mục tiêu là đến hết năm 1960, tỷ lệ đoàn viên công đoàn là thanh niên công nhân đạt 90%, riêng ở các cơ quan Đảng, chính quyền và đoàn thể đạt gần 95%[72]. Tổ chức công đoàn các cấp phải phối hợp chặt chẽ với đoàn thanh niên trong giáo dục ý thức giai cấp , ý thức nghề nghiệp cho thanh niên công nhân .

    Phong trào Nữ công nhân, viên chức đã góp phần quan trọng vào phong trào chung của công nhân, viên chức tỉnh nhà. Năm 1960 do sự phát triển của các ngành kinh tế, lực lượng nữ công nhân, viên chức đã tăng lên gấp 3,6 lần so với năm 1958. Đến cuối năm 1960, nữ công nhân, viên chức Tuyên Quang đã chiếm tỷ lệ gần 25% trong tổng số công nhân viên chức, lao động. Toàn tỉnh có 99 chị là uỷ viên Ban chấp hành Công đoàn các cấp, 35 chị giữ các cương vị lãnh đạo trong chính quyền và các đoàn thể. Trong 3 năm (1958 – 1960) đã có 16 chị đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp tỉnh, cấp khu và toàn quốc; một chị được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng Ba, 19 chị được khen thưởng về các hoạt động nữ công . Thành tích của nữ công nhân, viên chức đã góp phần quan trọng vào những thành tích chung của phụ nữ tỉnh Tuyên Quang. Những thành tích này đã được Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh đánh giá là: “Cán bộ phụ nữ đã cố gắng hoạt động để củng cố phát triển phong trào , góp phần quan trọng vào nhiệm vụ cải tạo và phát triển kinh tế”[73].

    Trong 3 năm 1958 – 1960 , được sự giúp đỡ của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Tuyên Quang đã chú trọng nhiều đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn. Ban thường vụ Liên hiệp công đoàn đã xác định : việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là nhiệm vụ quan trọng, đảm bảo việc nâng cao chất lượng cán bộ công đoàn các cấp. Trong kế hoạch 3 năm (1958-1960), Liên hiệp công đoàn đã đưa đi đào tạo , bồi dưỡng ở các trường công đoàn Trung ương, địa phương là 74 cán bộ, trong đó 12 đồng chí là người dân tộc. Ngoài ra còn phối hợp với các Ban của Tổng liên đoàn và Liên hiệp công đoàn khu tự trị Việt Bắc, tổ chức 12 lớp tập huấn nghiệp vụ cho 570 cán bộ cấp cơ sở[74]. Nhìn chung lực lượng cán bộ công đoàn tỉnh đã trưởng thành về số lượng và chất lượng, nhiều đồng chí đã thể hiện được vai trò của mình đối với quần chúng . Năm 1960 đã có 4 đồng chí và 5 đơn vị nhận bằng khen của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam ; 168 cá nhân và 24 đơn vị được nhận bằng khen của Liên hiệp công đoàn và nhiều đồng chí được cấp giấy khen của Uỷ ban hành chính tỉnh. Đặc biệt trong đội ngũ cán bộ công đoàn, nhiều đồng chí đã chuyển sang cơ quan Đảng, chính quyền và các đoàn thể. Đây cũng là một thành tích của tổ chức công đoàn Tuyên Quang trong việc tham gia xây dựng Đảng, chính quyền góp phần hoàn thành chức năng của công đoàn Việt Nam .

     Phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thành kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế. Với vị trí , vai trò và chức năng của mình công đoàn Tuyên Quang đã tổ chức , tập hợp và giáo dục đội ngũ công nhân, viên chức, lao động đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội. Những thắng lợi này là cơ sở để công nhân, viên chức , lao động tỉnh bước vào thời kỳ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa , góp phần vầo thành tích chung của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn cả nước. Tại Đại hội Đảng bộ Tuyên Quang lần thứ III (Tháng 3/1961) đã nhận định : “Công nhân, viên chức , lao động Tuyên Quang đã tham gia tích cực vào quá trình hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển một bước kinh tế của tỉnh, tạo nên bước chuyển biến quan trọng của thời kỳ mới”[75].

     Tuy nhiên phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Tuyên Quang thời gian này còn bộc lộ một số hạn chế cần được khắc phục. Đó là hoạt động của công đoàn chưa đáp ứng được yêu cầu phong trào công nhân, viên chức, lao động nhất là trên lĩnh vực giáo dục và đời sống ; vấn đề đào tạo và bồi dưỡng cán bộ chưa kịp thời, chưa đáp ứng được yêu cầu bổ sung và nâng cao chất lượng cán bộ dẫn đến việc tổ chức các hoạt động còn yếu và chung chung ; sự phối hợp hoạt động với chính quyền và đoàn thể khác còn chậm chưa thật sự hiệu quả ; việc đào tạo và phát triển cán bộ công đoàn là người dân tộc còn ít, do đó ảnh hưởng đến công tác vận động công nhân, viên chức và đồng bào các dân tộc .

     Mặc dù còn có nhiều khó khăn và nhược điểm, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh , Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và Liên hiệp công đoàn công đoàn khu tự trị Việt Bắc “Phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã đạt được những thành tích cơ bản, góp phần đưa Tuyên Quang một tỉnh miền núi tiến kịp với miền xuôi, đưa miền Bắc tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở cho sự nghiệp đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”[76].

II. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) :

      Thắng lợi của hai kế hoạch kinh tế ngắn hạn trong giai đoạn 1954-1960, đã tạo tiền đề cho miền Bắc nói chung, Tuyên Quang nói riêng bước vào sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất của Chủ nghĩa xã hội.

    Tháng 9/1960 , Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã đề ra đường lối, nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam . Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Đại hội lần này là đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”[77]. Đại hội xác định: “Tiến hành cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ Cách mạng Việt Nam , đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà”[78].

     Đối với tổ chức công đoàn Việt Nam , nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III đã ghi rõ : “ Nâng cao vị trí của tổ chức công đoàn trong mọi mặt hoạt động xã hội theo đúng luật công đoàn , làm cho công đoàn thật sự trở thành trường học quản lý kinh tế , quản lý Nhà nước , trường học của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản”[79].

     Tháng 2/1960 Đại hội lần thứ II Công đoàn Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội . Đại hội đã đề ra nhiệm vụ của công đoàn Việt Nam trong giai đoạn mới, và đổi tên “Tổng liên đoàn lao động Việt Nam” thành “Tổng công đoàn Việt Nam”, bầu đồng chí Hoàng Quốc Việt làm Chủ tịch Tổng công đoàn Việt Nam.

       Tháng 3/1961, Đại hội Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ III (vòng 2) đã được tiến hành. Đại hội đề ra mục tiêu và những chỉ tiêu kinh tế , văn hoá , xã hội của Tuyên Quang trong thời gian 1961– 1965, qua đó góp phần cùng với cả nước tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, đấu tranh thống nhất nước nhà.

     Trong thời gian Đại hội Đảng bộ tỉnh lần III (vòng 2) thì một vinh dự to lớn đến với nhân dân các dân tộc Tuyên Quang là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm tỉnh nhà từ ngày 19 đến ngày 20/3/1961. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi thăm nhiều nhà máy, xí nghiệp, công trường, lâm trường và các di tích Cách mạng. Nói chuyện với gần 1 vạn nhân dân các dân tộc mít tinh chào đón Người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói : “Chủ nghĩa xã hội là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no , con cháu chúng ta ngày càng sung sướng… Mình là người làm chủ tập thể của nước nhà , nói riêng thì công nhân là chủ nhà máy, xã viên là chủ hợp tác xã nông nghiệp”[80].

     “Mọi người làm chủ thì mọi người phải ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội, tức là phải thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, tức là phải thực hiện khẩu hiệu “Cần kiệm xây dựng Tổ quốc”[81]. Những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh động viên mạnh mẽ tinh thần Cách mạng của đồng bào các dân tộc và đội ngũ công nhân, viên chức, lao động Tuyên Quang quyết tâm thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ Nhất.

      Đại hội lần thứ IV công đoàn Tuyên Quang (vòng 1) được tiến hành tại thị xã Tuyên Quang từ ngày 10 đến ngày 14/4/1961. Đại hội đã vinh dự đón đồng chí Hoàng Quốc Việt, chủ tịch Tổng công đoàn Việt Nam, đồng chí Trần Hoài Quang, bí thư tỉnh uỷ về dự và chỉ đạo đại hội. Đại hội đã vạch ra nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể của phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Tuyên Quang trong kế hoạch 5 năm lần thứ I là: “Tổ chức giáo dục và vận động công nhân, viên chức các dân tộc trong tỉnh, nhằm phát huy truyền thống đoàn kết đấu tranh của tỉnh căn cứ địa Cách mạng, ra sức phấn đấu để thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền núi; phát huy tác dụng của công đoàn trong việc đoàn kết, tổ chức giáo dục động viên toàn thể công nhân, viên chức trong tỉnh nâng cao tinh thần yêu nước và nhiệt tình xã hội chủ nghĩa, tích cực thực hiện vượt mức và toàn diện những chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước năm 1961, tạo đà cho việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ I , đưa miền núi tiến kịp miền xuôi…”[82].Đại hội đề ra nhiệm vụ trước mắt của phong trào công nhân, hoạt động công đoàn là :

  • Tổ chức phong trào thi đua yêu nước , hợp lý hoá sản xuất nâng cao năng suất lao động trong công nhân, viên chức, lao động đưa sản xuất công nghiệp tỉnh tăng lên 25%.
  • Quan tâm hơn nữa đến đời sống của công nhân, viên chức, lao động làm tốt các vấn đề về nhà ăn , nhà ở…đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất, chú ý vấn đề tiền lương, bảo hiểm xã hội và công ăn việc làm.
  • Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho công nhân, viên chức, lao động nâng cao ý thức giai cấp , ý thức xã hội chủ nghĩa .
  • Nâng cao vị trí, vai trò, chức năng của tổ chức công đoàn .

     Đại hội đã bầu Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn , bầu đồng chí Nguyễn Văn Khoa làm Thư ký và đồng chí Lê Thị Duyên làm Phó thư ký Liên hiệp công đoàn tỉnh Tuyên Quang khóa IV .

      Từ sau đại hội công đoàn tỉnh Tuyên Quang lần thứ IV, hoạt động công đoàn đã tập trung vào cuộc vận động công nhân, viên chức, lao động đẩy mạnh sản xuất, cải tiến kỹ thuật, hưởng ứng lời kêu gọi thi đua của Tổng công đoàn Việt Nam“Học tập và thi đua với sóng Duyên Hải, gió Đại Phong, cờ Ba Nhất”. Đây cũng là phong trào thi đua sâu rộng của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam trong cả kế hoạch 5 năm. Để gắn bó với đặc điểm của Tuyên Quang , Liên hiệp công đoàn phối hợp với các đoàn thể như thanh niên , phụ nữ đề ra khẩu hiệu thi đua là “Phất cờ Tân Trào, sông Lô nổi sóng”. Trong đó công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn phải đạt lao động tiên tiến, phụ nữ đạt danh hiệu thi đua 5 tốt, thanh niên đạt danh hiệu 3 xung phong và 3 sẵn sàng.

     Hoạt động công đoàn tỉnh Tuyên Quang trong 10 tháng đầu năm 1961 đã đạt được nhiều thành tích, tạo nên bước chuyển biến quan trọng của công đoàn tỉnh nhà trong năm đầu kế hoạch 5 năm . Trong 10 tháng đầu năm 1961, hơn 85% công đoàn cơ sở đạt danh hiệu công đoàn tiên tiến , 15% đạt danh hiệu công đoàn xuất sắc . Phong trào thi đua của công nhân, lao động có tính quần chúng rộng lớn và tính tự giác cao, mang lại hiệu quả trong sản xuất và công tác .

     Tại các nhà máy, xí nghiệp, nông – lâm trường, đội ngũ công nhân đẩy mạnh phong trào thi đua với “Sóng Duyên Hải”; trong các công trường có phong trào thi đua đuổi kịp và vượt “Gió Đại Phong”; trong các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp có phong trào học và thi đua với “Thành công”. Nội dung các phong trào thi đua đã được Liên hiệp công đoàn tỉnh thường xuyên chỉ đạo và rút ra các ưu, nhược điểm kịp thời. Các cấp công đoàn trong tỉnh vừa tổ chức Đại hội công đoàn cơ sở, vừa kết hợp phát động các phong trào thi đua. Nhiều đơn vị đã đăng ký phấn đấu trở thành tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa, nhiều nhân tố mới đã xuất hiện trong năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Toàn tỉnh đã có 16 đơn vị mở hội thao diễn kỹ thuật, thu hút được hơn 86% công nhân, cán bộ kỹ thuật tham gia. Năm 1961 đã nổi lên các đơn vị tiêu biểu cho phong trào thi đua lao động sản xuất như : công trường Đèo Lai (Chiêm Hoá), nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ , nông trường Trần Phú , nông trường sông Lô , phân cục vận tải Tuyên – Hà …[83]

     Phong trào thi đua yêu nước do các cấp công đoàn trong tỉnh phát động đã lôi cuốn đa số công nhân, viên chức, lao động thi đua . Nhiều công nhân đã ghi tên tình nguyện vượt mức kế hoạch, khắc phục mọi khó khăn thiếu thốn trong sản xuất. Năm 1961 đội ngũ công nhân , viên chức Tuyên Quang đã có hàng ngàn sáng kiến làm lợi hàng chục ngàn đồng và tạo ra một số định mức kinh tế kỹ thuật mới. Tiêu biểu như nông trường sông Lô có 18 sáng kiến, lâm trường Cao Bình có 138 sáng kiến, công đoàn Trần Phú có 93 sáng kiến. Riêng sáu tháng đầu năm 1961 thống kê ở 6 đơn vị chủ chốt của tỉnh đã có 248 sáng kiến làm lợi gần 1,2 triệu đồng .

     Từ phong trào thi đua yêu nước, cải tiến kỹ thuật đã xuất hiện nhiều tập thể và cá nhân xuất sắc như : chiến sĩ thi đua Bùi Duy Dậu (ngành bưu điện), chiến sĩ thi đua Nguyễn Viết Kim (ngành văn hoá), nhà máy cơ khí Trần Phú, nông trường sông Lô[84] đã góp phần quan trọng vào những thành tựu chung của phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang năm 1961.

     Tháng 11/1961 các cơ sở công nghiệp , thủ công nghiệp đã phát động phong trào thi đua cải tiến quản lý xí nghiệp và xây dựng các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật gắn liền với việc hoàn thành kế hoạch năm 1961, khắc phục bệnh hình thức, chủ quan đã xuất hiện trong các đơn vị sản xuất .

     Tháng 11/1961 Đại hội công đoàn Tuyên Quang lần thứ IV (vòng II) đã được tiến hành. Đại hội đánh giá hoạt động công đoàn năm 1961, kịp thời đưa ra những biện pháp khắc phục các hạn chế yếu kém trong công tác tổ chức phong trào thi đua. Đại hội đã đánh giá : phong trào công nhân và hoạt động công đoàn đã đạt được những mục tiêu cơ bản đề ra từ Đại hội công đoàn tỉnh lần thứ IV (vòng I). Đại hội đã bầu Ban chấp hành gồm 19 Uỷ viên chính thức, 2 Uỷ viên dự khuyết, đồng chí Nguyễn Ngọc Hứa được bầu làm Thư ký và đồng chí Nguyễn Văn Khoa làm Phó thư ký Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang.

      Từ sau Đại hội, phong trào thi đua “Ba cải tiến” nhằm tìm ra những nhân tố mới hướng về Đại hội thi đua Toàn quốc lần thứ II. Cùng với phong trào thi đua yêu nước, thi đua xã hội chủ nghĩa trong công nhân, viên chức, lao động Tuyên Quang đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thành kế hoạch Nhà nước. Trong hai năm 1961- 1962 toàn tỉnh đã có 2143 sáng kiến, bầu chọn 86 tổ sẩn xuất tiên tiến (cấp tỉnh), 179 chiến sĩ thi đua và hàng ngàn lao động tiên tiến. Năm 1962 toàn tỉnh đã có 28 đơn vị kinh tế hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra từ 40 đến 70 ngày[85].

        Năm 1962 Đảng, Chính phủ chủ trương huy động lực lượng lớn nhân lực từ thành phố, đồng bằng lên xây dựng và phát triển kinh tế miền núi. Tỉnh Tuyên Quang đã kết nghĩa với Ninh Bình và tổ chức đón nhận hàng vạn người lên xây dựng , phát triển kinh tế - xã hội miền núi . Liên hiệp công đoàn đã chỉ đạo công đoàn các nông, lâm trường, các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp …vận  động công nhân, viên chức, lao động giúp đỡ vật chất, tinh thần để ổn định nơi ăn, ở, làm việc cho hàng vạn người dân, cũng như công nhân, lao động các nơi khác đến. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn công nhân, viên chức, lao động Tuyên Quang đã quyên góp được 1,5 triệu đồng, dựng hàng trăm nhà ở tạm thời cho người mới đến. Góp phần hoàn thành chủ trương kinh tế của Tỉnh uỷ.

     Tháng 12/1962 , hội nghị Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã họp và quán triệt tinh thần “phấn đấu dành danh hiệu tổ , đội lao động xã hội chủ nghĩa” trong công nhân, viên chức. Hội nghị phổ biến nghị quyết lần thứ 4 của Ban chấp hành Tổng công đoàn Việt Nam về việc xây dựng củng cố công đoàn cơ sở. Là một tỉnh miền núi, có tiềm năng nông – lâm nghiệp, chăn nuôi to lớn nên hoạt động công đoàn phải góp phần đẩy mạnh sản xuất nông – lâm nghiệp, đáp ứng lương thực , thực phẩm cho đời sống nhân dân và một phần nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp . Liên hiệp công đoàn tỉnh đề ra mục tiêu phong trào thi đua trong những năm tới là: đẩy mạnh cuộc vận động hợp lý hoá sản xuất, cải tiến kỹ thuật đi vào bề sâu , đề cao thi đua tập thể, giao ước thi đua với nhà máy cơ khí Duyên Hải và nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ . Để phát triển nông nghiệp, nông thôn, Liên hiệp công đoàn đã phát động phong trào thi đua “4 mũi tăng cường chi viện cho nông nghiệp”, phong trào đã lôi cuốn hàng vạn công nhân, viên chức, lao động tham gia nhằm tạo ra một bước phát triển mới của nông nghiệp nông thôn. Chỉ trong thời gian ngắn, các ngành các cấp đã đóng góp nhiều công sức, trí tuệ, vật tư cho các hợp tác xã. Trong đó có hơn 1000 máy nông cụ, 3500 tấn phân bón và 3 vạn ngày công …

    Hoạt động công đoàn tỉnh năm 1962 đã tập trung vào việc củng cố tổ công đoàn, vận động công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn tích cực tham gia xây dựng công đoàn cơ sở 4 tốt. Đến tháng 12/1962 hơn 90% công đoàn cơ sở đã được củng cố đạt tiêu chuẩn 4 tốt , hầu hết công đoàn cơ sở đã tổ chức được Đại hội công nhân, viên chức. Ban chấp hành công đoàn cơ sở được kiện toàn, gồm những cán bộ gương mẫu trong lao động, công tác, có ý thức và trình độ hoạt động công đoàn, vận động quần chúng. Quán triệt sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ về công tác cán bộ, Liên hiệp công đoàn đã bố trí, sắp xếp lực lượng cán bộ chuyên trách, bán chuyên trách ở hầu hết công đoàn ngành và công đoàn cơ sở trực thuộc. Quán triệt nguyên tắc cán bộ công đoàn phải là “Miệng nói tay làm”,  Liên hiệp công đoàn đã tuyển chọn được nhiều cán bộ Đảng có năng lực, đưa đi đào tạo dài hạn. Trong hai năm 1962 – 1963, Liên hiệp công đoàn đã cử gần 300 lượt cán bộ chuyên trách và bán chuyên trách đi học tập dài hạn, ngắn hạn ở các trường Trung ương và địa phương. Trong đó có 22 đồng chí là cán bộ dân tộc, 50 đồng chí học tập từ 6 tháng đến 2 năm . Riêng Liên hiệp công đoàn đã phối hợp với Liên hiệp công đoàn khu tự trị Việt Bắc tổ chức 4 lớp tập huấn nghiệp vụ công đoàn cho 316 tổ trưởng và tổ phó công đoàn[86]. Nhờ vậy đến năm 1963, hơn 90% cán bộ công đoàn chuyên trách và 40% cán bộ công đoàn bán chuyên trách của tỉnh, được qua các lớp đào tạo về lý luận và nghiệp vụ công đoàn .

    Kết thúc năm 1962, công tác tổ chức và phát triển đoàn viên của tỉnh đã có nhiều kết quả. Toàn tỉnh có hơn 10.000 đoàn viên công đoàn được phân bố trong 57 công đoàn ngành và công đoàn cơ sở trực thuộc. Lực lượng cán bộ công đoàn của tỉnh được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Toàn tỉnh có 32 cán bộ công đoàn chuyên trách, 1731 đồng chí bán chuyên trách. So với năm 1960 thì lực lượng cán bộ công đoàn đã tăng thêm 20%, trong đó cán bộ công đoàn người dân tộc chiếm 26%, cán bộ nữ chiếm 28%.

    Nhìn chung hoạt động công đoàn năm 1962 đã có nhiều cố gắng, nhất là trong công tác xây dựng và phát triển tổ chức công đoàn. Từ năm 1961, Ban thường vụ tỉnh uỷ đã cử một đồng chí thường vụ phụ trách công đoàn, các công đoàn cơ sở đều có các đồng chí cấp uỷ phụ trách hoặc chỉ đạo trực tiếp. Sau hội nghị Dân – Chính của Tỉnh uỷ (tháng 12/1961) thì sự chỉ đạo , quan tâm của tỉnh đối với tổ chức công đoàn càng thể hiện rõ hơn. Đảng đoàn Liên hiệp công đoàn do đồng chí Thư ký Liên hiệp công đoàn trực tiếp làm Bí thư đã có sự phối hợp hoạt động kịp thời, năng động với các Ban của Tỉnh uỷ . Đảng đoàn rất chú trọng đến việc mở rộng dân chủ, phê bình và tự phê bình để cải tiến công tác lãnh đạo. Đưa hoạt động công đoàn tập trung vào nhiệm vụ sản xuất và vận động quần chúng, coi trọng công tác giáo dục chính trị , tư tưởng cho công nhân, viên chức, lao động làm cho công đoàn là trường học của chủ nghĩa xã hội .

    Năm 1962 phong trào tăng gia sản xuất, tiết kiệm cũng được các cấp công đoàn phát động đều đặn trong công nhân, viên chức, lao động. Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ về định mức tăng gia sản xuất là 180 kg chất bột, 5 kg thịt, 100% rau xanh cho mỗi cán bộ , công nhân/1năm. Liên hiệp công đoàn đã chỉ đạo công đoàn các cấp vận động đoàn viên thực hiện chỉ tiêu này . Kết quả đến tháng 12/1962 thống kê ở 31 cơ sở cho thấy :

  • Lương thực          1.000.000 kg
  • Rau xanh đạt       5600 tấn .
  • Trâu bò                500 con .
  • Lợn                      2400 con.
  • Gia cầm               15.000 con.
  • Cây ăn quả           75.000 gốc .

      Phong trào tăng gia sản xuất cải thiện đời sống đã được công đoàn các cấp và đa số công nhân, viên chức , lao động tham gia . Nhiều đơn vị đã hoàn thành trước thời hạn như : Nhà máy Gạch Chịu lửa đạt 5,5 kg thịt/người trong 6 tháng đầu năm ; đơn vị B2 giao thông đạt 6,6 kg trong 7 tháng đầu năm. Đặc biệt nông trường sông Lô đạt 18 kg thịt trong 11 tháng của năm 1962[87]. Có thể nói phong trào thi đua tăng gia sản xuất cải thiện đời sống , là nét nổi bật của hoạt động công đoàn tỉnh trong năm 1962.

      Năm 1963 có nhiều thuận lợi cho phong trào công nhân, lao động tỉnh nhà, góp phần hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ Nhất. Hội nghị Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn tỉnh chỉ rõ nhiệm vụ của công nhân, viên chức, lao động và đoàn viên công đoàn Tuyên Quang năm 1963 là : “Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, chăm lo cải thiện đời sống của quần chúng; động viên quần chúng trao đổi chính trị , văn hoá , kỹ thuật , nghiệp vụ, tiếp tục phát huy tinh thần tự lực cánh sinh , tinh thần làm chủ tập thể ; thiết thực tham gia quản lý xí nghiệp; quản lý kinh tế , tăng cường kỷ luật lao động xã hội , đảm bảo chất lượng , bảo vệ sản xuất ; phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước năm 1963”[88]. Để thực hiện nhiệm vụ này Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn đề ra các biện pháp thực hiện cho công đoàn các cấp là:

  • Vận động công nhân, viên chức, lao động ra sức thi đua lao động sản xuất, tham gia quản lý xí nghiệp, quản lý kinh tế .
  • Xây dựng, tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa .
  • Bồi dưỡng chiến sĩ thi đua, lao động tiên tiến, đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến .
  • Chăm lo đời sống công nhân, lao động .
  • Thực hiện tốt công tác bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội .
  • Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng .
  • Xây dựng tổ chức công đoàn, lấy công đoàn cơ sở làm trọng tâm, phát triển lực lượng đoàn viên .
  • Cải tiến sự chỉ đạo của Liên hiệp công đoàn và công đoàn các cấp.

    Năm 1963 , phong trào thi đua yêu nước, hoàn thành kế hoạch Nhà nước phát triển mạnh trong các nông , lâm trường, cơ quan. Nội dung chủ yếu là hướng vào việc hợp lý hoá sản xuất, cải tiến quản lý , cải tiến kỹ thuật, vì miền Nam ruột thịt và Bình Thuận kết nghĩa, vì sự thông nhất Tổ quốc . Ở các cơ quan , xí nghiệp có phong trào “Ngày thứ 7 đẩy mạnh sản xuất vì sự nghiệp thống nhất Tổ quốc” và phong trào làm thêm giờ với khẩu hiệu “Nam đổ máu, Bắc đổ mồ hôi”. “Đến tháng 12/1963 đã có 10 đơn vị hoàn thành kế hoạch năm trước thời hạn từ 10 đến 44 ngày, lợi nhuận đã tăng hơn năm 1962”[89]. Hầu hết các ngành kinh tế của tỉnh như ngành nông trường, lâm trường , công nghiệp, giao thông vận tải, thương nghiệp, bưu điện, thuỷ lợi, giáo dục…đều hoàn thành chỉ tiêu đã đề ra . Năm 1963 toàn tỉnh đã có 2100 chiến sĩ thi đua các cấp và 1600 sáng kiến cải tiến kỹ thuật làm lợi hàng chục triệu đồng.

       Cuối năm 1962 đầu năm 1963 ,sản xuất nông nghiệp của Tuyên Quang gặp nhiều khó khăn, do thiên tai, sâu bệnh, mưa lũ, hạn hán xảy ra liên tục làm thiệt hại hàng ngàn ha lúa và ảnh hưởng đến đời sống nhân dân thuộc các huyện Na Hang, Chiêm Hoá …Nhằm giúp đỡ người dân trong sản xuất nông nghiệp, Liên hiệp công đoàn tỉnh đã phát động các cơ quan và cán bộ, công nhân, viên chức xuống các hợp tác xã qiúp dân . Lần lượt đã có 20 cơ quan Quân, Dân, Chính, Đảng và hàng ngàn lượt cán bộ , viên chức với hơn hai vạn ngày công giúp đỡ nông dân ở xã bị thiên tai. Năm 1963 , công nhân , viên chức tỉnh nhà đã nạo vét sửa chữa hơn 35 km kênh mương, làm mới 5 con đường liên xã, liên bản, sửa chữa nhiều trạm y tế, trường học, tổ chức khám chữa bệnh cho hàng vạn đồng bào các dân tộc…Đặc biệt Liên hiệp công đoàn đã phối hợp với Đoàn thanh niên tỉnh thành lập các “Tiểu đoàn thanh niên xung kích” xây dựng các công trình giao thông quan trọng . Những Tiểu đoàn thanh niên xung kích đã có sự tham gia của hàng ngàn đoàn viên công đoàn là thanh niên công nhân, viên chức . Năm 1963 lực lượng “Tiểu đoàn thanh niên xung kích” đã vượt bao khó khăn hoàn thành con đường giao thông huyết mạch Chiêm Hoá – Na Hang–Bản Lãm[90]. Những hoạt động trên đà góp phần khôi phục sản xuất nông nghiệp, tăng cường khối liên minh công nông , ổn định đời sống nông dân ở các thôn bản nhất là những nơi cư trú của đồng bào dân tộc .

       Nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế , Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra nghị quyết về cuộc vận động “nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu (gọi tắt là 3 xây, 3 chống)”. Tiếp đó Ban chấp hành Tổng công đoàn Việt Nam ra nghị quyết 10, 11, cụ thể hoá nghị quyết của Đảng vào trong phong trào công nhân lao động . Tại Tuyên Quang thường vụ Tỉnh uỷ đã chỉ đạo các cơ quan Quân, Dân, Chính, Đảng thực hiện nghị quyết quan trọng này, giao cho Liên hiệp công đoàn phải tổ chức, vận động đội ngũ công nhân, viên chức toàn tỉnh tích cực tham gia . Quán triệt sự chỉ đạo của Tổng công đoàn và của Tỉnh uỷ, Liên hiệp công đoàn đã chọn các ngành kinh tế làm điểm chỉ đạo như thương nghiệp, lương thực, giao thông, nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ... Phương châm chỉ đạo của Liên hiệp công đoàn là coi trọng cả hai mặt : “xây và chống”, muốn “xây” phải “chống” tốt. Cuộc vận động “3 xây, 3 chống” đã được sự tham gia của đông đảo công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn các cấp. Cuộc vận động diễn ra sôi nổi trong suốt năm 1963 sang đầu năm 1964. Liên hiệp công đoàn đã cử hàng trăm lượt cán bộ đi về cơ sở xây dựng các chỉ tiêu định mức cho cuộc vận động “3 xây. 3 chống”. Kết quả cuộc vận động “3 xây, 3 chống” đã đạt được :

  • Về mặt chính trị , tư tưởng : góp phần nâng cao ý thức làm chủ , tinh thần tự nguyện tự giác của công nhân, viên chức, lao động . Những tư tưởng lệch lạc hữu khuynh , cá nhân bị phê phán , đẩy lùi .
  • Về mặt quản lý ; Đảm bảo nguyên tắc , chế độ quản lý kinh tế, hàng hoá được bảo quản tốt , chất lượng sản phẩm được coi trọng, hạn chế sự mất mát, hư hỏng, tiêu hao nguyên vật liệu .
  • Về mặt chống : Đã hạn chế các vụ việc tham ô, lãng phí; vận động công nhân, viên chức, lao động đấu tranh chống những cán bộ làm sai, trái với pháp luật.
  • Về mặt xây : Đã xây dựng và kiện toàn tổ chức công đoàn các cấp, phát triển đoàn viên; đồng thời xây dựng tổ chức Đảng, Đoàn thanh niên, phụ nữ .

    Năm 1963 phong trào thi đua trở thành đơn vị lao động xã hội chủ nghĩa được các cấp công đoàn chú ý . Rút kinh nghiệm phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa của năm 1962 , phong trào thi đua tổ đội xã hội chủ nghĩa của năm 1963 và 1964 đã có nhiều tiến bộ. Một trong những chỉ tiêu để đánh giá đơn vị đạt danh hiệu thi đua xã hội chủ nghĩa , là phải hoàn thành vượt mức kế hoạch năm trước thời gian và đảm bảo chất lượng sản phẩm theo khẩu hiệu “nhanh, nhiều, tốt, rẻ”. Kết quả phong trào thi đua trở thành đơn vị lao động xã hội chủ nghĩa toàn tỉnh có 52 đơn vị đạt danh hiệu thi đua cấp tỉnh, 10 đơn vị được đề nghị công nhận cấp Toàn quốc .

     Tháng 2/1963, Thường vụ Tỉnh uỷ đã cử đồng chí Nguyễn Văn Khoa làm Thư ký Liên hiệp công đoàn thay đồng chí Lương Quang Mai đi nhận công tác khác. Đồng chí Lê Thị Duyên được bầu làm Phó thư ký Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang.

     Tháng 6/1963, Đại hội Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ IV đã được tổ chức, đồng chí Hoàng Quốc Việt uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng công đoàn Việt Nam đã về dự. Đại hội tỉnh Đảng bộ đã chỉ rõ những nhiệm vụ của công nhân, viên chức, lao động và nhân dân các dân tộc trong những năm tới là :

  • Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa , hoàn thiện quan hệ sản xuất mới .
  • Bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội .
  • Phát triển mạnh mẽ vững chắc sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp.
  • Phát triển văn hoá, xã hội, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật.

     Đối với tổ chức công đoàn Đại hội chủ trương đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với Liên hiệp công đoàn và các đoàn thể khác. Đại hội Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ IV đã tạo điều kiện quan trọng để các cấp công đoàn Tuyên Quang tham gia tích cực vào các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh nhà. Trong dịp này nhằm phát huy vai trò của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn , Ban bí thư Trung ương Đảng đã ra nghị quyết “vai trò và nhiệm vụ của công đoàn”. Nghị quyết đã chỉ rõ nhiệm vụ của công đoàn là : “công đoàn các cấp có trách nhiệm giáo dục, tổ chức công nhân, viên chức hăng hái thi đua hoàn thành toàn diện và vượt mức kế hoạch Nhà nước”.

     Quán triệt các nghị quyết của Đảng và của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, Liên hiệp công đoàn tỉnh Tuyên Quang đã chỉ đạo các cấp công đoàn rà soát lại mọi hoạt động, phải kiểm điểm rút ra các mặt mạnh, mặt yếu, nguyên nhân của những thành công và chưa thành công. Từ tháng 6/1963 Tuyên Quang có chủ trương sắp xếp, điều chỉnh lại một số cơ ở sản xuất. Việc này có thể làm xáo trộn về mặt tổ chức và nhân sự của một số nông, lâm trường, nhà máy, xí nghiệp. Tuy nhiên đội ngũ cán bộ công nhân, viên chức vẫn yên tâm lao động, công tác thể hiện vai trò làm chủ tập thể của mình. Năm 1963 cho dù gặp nhiều khó khăn, nhưng Tuyên Quang vẫn hoàn thành được các chỉ tiêu đã đề ra, nhiều ngành nghề, đơn vị sản xuất, kinh doanh đã có nhiều chuyển biến. Sản xuất nông nghiệp đã ổn định, lương thực, thực phẩm tăng 10,5% so với năm 1962; năng suất lao động của công nghiệp quốc doanh tăng hơn 26% . Hệ thống giao thông vận tải được xây dựng thêm như Quốc lộ số 2, đường 13A nối km 31 với Chiêm Hoá – Na Hang – Bản Lãm ; Chiêm Hoá – Minh Đức ; Phúc Ứng – Sơn Nam. Hệ thống thuỷ lợi và đưa máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp được chú ý. Cuối năm 1963 đã có thêm 17 công trình thuỷ nông, hàng ngàn máy bơm đưa vào hoạt động, đưa diện tích lúa được tưới tiêu lên 25.000 ha, bằng 145% so với năm 1961.

     Đại hội lần thứ V công đoàn Tuyên Quang đã được tiến hành từ ngày 25 đến ngày 29/1/1964 tại thị xã Tuyên Quang. Các đồng chí Trần Hoài Quang Bí thư tỉnh uỷ, Nguyễn Công Hoà Phó chủ tịch Tổng công đoàn Việt Nam đã về dự Đại hội. Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ của phong trào công nhân, hoạt động công đoàn Tuyên Quang trong hai năm 1964, 1965. Trước mắt là vận động đông đảo công nhân, viên chức tham gia phong trào “3 xây , 3 chống, 3 cải tiến phục vụ nông nghiệp, góp phần xây dựng kinh tế miền núi”[91]. Đại hội đã bầu Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn gồm 19 đồng chí Uỷ viên chính thức, 2 đồng chí Uỷ viên dự khuyết, đồng chí Nguyễn Văn Khoa được bầu làm Thư ký, đồng chí Lê Duyên (Lê Thị Duyên) làm Phó thư ký Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang khoá V. Đại hội đã kêu gọi toàn thể công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn ra sức thi đua yêu nước , phấn đấu trở thành tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa , tăng năng suất lao động trên cơ sở hợp lý hoá sản xuất, cải tiến kỹ thuật .

     Từ sau Đại hội công đoàn tỉnh lần thứ V, Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã chỉ đạo công đoàn các cấp tham gia với chuyên môn mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, thực hiện kịp thời các chế độ phúc lợi cho người lao động. Các cấp công đoàn đã cùng cơ quan quản lý, các tổ chức đoàn thể hướng dẫn công đoàn cơ sở xây dựng chương trình hợp lý hoá sản xuất, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật và tổ chức hội nghị công nhân – viên chức đúng thời gian . Qua hội nghị công nhân, viên chức đã phát hiện nhiều vấn đề kinh tế , đời sống để công đoàn cơ sở kịp thời phản ánh với cấp uỷ Đảng và chuyên môn sửa chữa kịp thời.

     Năm 1964 năm bản lề của kế hoạch 5 năm lần thứ Nhất, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Tuyên Quang xác định: Tuyên Quang phải quyết tâm hoàn thành kế hoạch này và phải được đánh dấu bằng những thắng lợi trên mặt trận sản xuất và xây dựng, đặc biệt là trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp . Ban chấp hành tỉnh uỷ đã ra lời kêu gọi công nhân, viên chức và nhân dân Tuyên Quang hăng hái tiến lên thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Mỗi người chúng ra phải làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt”[92]

     Quán triệt sự chỉ đạo của tỉnh uỷ, tháng 3/1964 Liên hiệp công đoàn phát động phong trào thi đua trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, trong các đơn vị sản xuất. Mục tiêu là hoàn thành kế hoạch năm 1964 trước thời hạn, tạo nên những thuận lợi cho năm 1965, năm cuối của kế hoạch 5 năm (1961-1965). Để chỉ đạo phong trào thi đua, Liên hiệp công đoàn đã đưa nhiều cán bộ xuống cơ sở , tổ chức cho tập thể và cá nhân đăng ký danh hiệu thi đua. Kết quả là toàn tỉnh đã có 92% tập thể đăng ký thi đua tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa; 86% cá nhân đăng ký thi đua đạt danh hiệu lao động tiên tiến. Phong trào thi đua lao động xã hội chủ nghĩa trong các nông – lâm trường, nhà máy, xí nghiệp đã đưa năng suất lao động lên cao , đạt từ 20% đến 26%. Trong đó có nhiều đơn vị xuất sắc như nhà máy Gạch Chịu lửa, Nông trường sông Lô, Nông trường Trần Phú, tổ Gagari thuộc nông trường Chiêm Hoá…năng suất lao động tăng từ 39% đến 45%[93].

     Tổng kết năm 1964, nhìn chung Tuyên Quang đạt được hầu hết các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra, nhiều ngành sản xuất đã có sự chuyển biến mạnh mẽ. Sản xuất nông nghiệp chăn nuôi đều tăng trưởng và vượt mức về diện tích, sản lượng, vật nuôi . Đặc biệt chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò, ngựa) đã tăng hơn năm 1963 là 12%. Cùng với sản xuất nông nghiệp là sản xuất công nghiệp đã tăng mạnh, nhiều ngành mới như điện lực , chế tạo cơ khí , vật liệu xây dựng ra đời , công nghiệp địa phương có thêm 11 ngành. Công nghiệp khai thác như gỗ, than , kẽm được chú ý . Nhờ vậy mà năm 1964 công nghiệp đã tăng 6,9% và thủ công nghiệp tăng 15% so với năm 1963 [94].

     Trên cơ sở tăng trưởng của kinh tế - xã hội , nhất là sự tăng trưởng của công nghiệp, lâm nghiệp, giao thông vận tải…đội ngũ công nhân, viên chức Tuyên Quang tiếp tục phát triển. Đến tháng 11/1964 Tuyên Quang đã có hơn 18.000 công nhân, viên chức trong đó đội ngũ công nhân, viên chức ở công nghiệp quốc doanh đã phát triển khá nhanh . So với năm 1963, lực lượng công nhân quốc doanh đã tăng thêm 20%. Số công nhân trẻ , được đào tạo nghề ngày càng nhiều. Đặc biệt Liên hiệp công đoàn đã chỉ đạo công đoàn các lâm trường, nông trường với chuyên môn tuyển dụng nhiều thanh niên trẻ người dân tộc vào làm việc, góp phần đưa tỷ lệ công nhân dân tộc tăng cao .

     Năm 1964 công tác phát triển đoàn viên, xây dựng tổ chức công đoàn của Tuyên Quang tiếp tục được chú ý. Trên đà phát triển về số lượng công nhân, viên chức, lao động thì việc phát triển lực lượng đoàn viên và tổ chức công đoàn cơ sở có nhiều thuận lợi. Tháng 7/1964 Ban thường vụ Liên hiệp công đoàn đã có chỉ thị về việc đẩy mạnh kết nạp công nhân, viên chức vào công đoàn. Chỉ thị đã vạch ra một số hạn chế về công tác phát triển đoàn viên và đưa ra một số biện pháp để khắc phục. Nhờ vậy mà cuối năm 1964, số lượng đoàn viên công đoàn đã tăng hơn năm 1963 là 17%, nhiều đơn vị tỷ lệ đoàn viên công đoàn đạt từ 70 đến 85%.

     Năm 1964 công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được Liên hiệp công đoàn chú ý và đưa vào chỉ tiêu cụ thể. Trong đó coi trọng nâng cao trình độ chính trị, tăng cường khả năng hoạt động cho cán bộ công đoàn. Năm 1964, Liên hiệp công đoàn đã tổ chức bồi dưỡng, tập huấn các lớp chuyên đề cho 70 đồng chí, đưa đi học tập ở Tổng công đoàn là 6 đồng chí và tập huấn cho công đoàn cơ sở là 358 đồng chí. Nhìn chung công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã có nhiều chuyển biến, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu chung của phong trào công nhân, hoạt động công đoàn tỉnh nhà. Ngay ở cơ quan Liên hiệp công đoàn còn thiếu cán bộ có trình độ cao, nhiều đồng chí chưa được đào tạo bài bản qua trường lớp. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ và cán bộ dân tộc còn ít, chưa kịp thời và thường xuyên. Đây cũng là một vấn đề mà Tỉnh uỷ đã nhắc nhở chỉ đạo Liên hiệp công đoàn thực hiện, trước mắt là đến năm 1965 phải đạt tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc trên 30%.

     Tháng 8/1964 do bị thất bại trong chiến tranh đặc biệt ở miền Nam, đế quốc Mỹ đã dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Cả nước nói chung và Tuyên Quang nói riêng bước sang thời kỳ vừa sản xuất vừa chiến đấu. Kế hoạch 5 năm lần thứ Nhất đã bị gián đoạn và ít nhiều ảnh hưởng đến những chỉ tiêu kinh tế, đời sống của miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

     Mặc dù vậy với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất miền Bắc đã có những bước tiến quan trọng trong xây dựng kinh tế xã hội. So với năm 1960 tổng sản phẩm xã hội năm 1965 tăng 52,9%, trong đó công nghiệp tăng 89,6%, nông – lâm nghiệp tăng 34%, xây dựng cơ bản tăng 72%. Tỷ trọng kinh tế xã hội chủ nghĩa từ 66,6% năm 1960 đã tăng lên 90,1% năm 1965, thu nhập bình quân đầu người năm 1965 đã tăng 24,3%[95].

     Đầu năm 1965, Tỉnh uỷ Tuyên Quang đã họp hội nghị mở rộng bàn về phương hướng và nhiệm vụ phát triển công nghiệp quốc doanh địa phương và thủ công nghiệp. Trong đó đề ra những chủ trương, biện pháp quan trọng để chuyển hướng xây dựng kinh tế Tuyên Quang phù hợp với thời kỳ chống chiến tranh phá hoại. Kết thúc kế hoạch 5 năm 1961 – 1965 tuy chưa được trọn vẹn, nhưng Tuyên Quang đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong lĩnh vực xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội. So với năm 1961, sản xuất nông nghiệp của năm 1965 tăng 18% và tổng diện tích cây lương thực tăng 25,76%; chăn nuôi có nhiều chuyển biến, trong đó đàn trâu đạt 56.000 con, tăng 25% so với năm 1961 và giá trị tổng sản lượng chăn nuôi tăng 21,95%[96]. Trong lĩnh vực công nghiệp thì năm 1965 tăng 46,25% so với năm 1961, trong đó công nghiệp quốc doanh đã chiếm 37% giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp. Trong lĩnh vực thương nghiệp thì năm 1965 đã giải quyết cơ bản tốt nhiệm vụ cung cấp hàng hoá, thu mua nông sản để thúc đẩy sản xuất. Tổng mức bán lẻ hàng hoá năm 1965 bằng 169,64% so với năm 1960, trong đó thương nghiệp quốc doanh đã chiếm hơn 93% tổng mức bán lẻ. Sự phát triển kinh tế - xã hội của 5 năm (1961 – 1965) đã đưa tổng thu ngân sách của tỉnh tăng nhanh chóng, năm 1965 thu ngân sách đã tăng lên 2, 3 lần so với năm 1960[97].

     Sự nghiệp văn hoá giáo dục thu được nhiều kết quả, từ một tỉnh thấp kém về văn hoá và tỷ lệ người mù chữ khá cao thì đến năm 1965, Tuyên Quang đã cơ bản xoá nạn mù chữ . Toàn tỉnh đã có thêm 11.000 người biết đọc, biết viết, 29.000 người học xong chương trình bổ túc văn hoá các cấp. Tháng 9/1965 Tuyên Quang đã có 6 trường bổ túc văn hoá, 5 trường dân tộc thanh niên vừa học vừa làm, số học sinh chiếm hơn 16% dân số. Hầu hết các xã đều có trường cấp I, cả tỉnh có 38 trường cấp II, 3 trường cấp III , 1 trường sư phạm cấp I và hơn 1000 giáo viên các cấp[98].

     Cùng với sự nghiệp văn hoá giáo dục là sự nghiệp y tế có những chuyển biến quan trọng nhằm chăm lo bảo vệ sức khoẻ nhân dân, mạng lưới y tế được xây dựng từ thị xã cho đến các làng bản xa xôi. Năm 1965 cứ 1000 dân có 0,36 y, bác sĩ và 0,81 giường bệnh, hầu hết các xã đều có nhà hộ sinh hoặc trạm xá, tỉnh đã có một Bệnh viện đa khoa và bốn Bệnh viện cấp huyện .

     Những thành tựu quan trọng của kế hoạch 5 năm ở Tuyên Quang đã trở thành nhân tố quan trọng làm chuyển biến phong trào công nhân và hoạt động công đoàn tỉnh nhà. Trước hết đã làm cho số lượng công nhân, viên chức phát triển về mọi mặt. Năm 1965 số lượng công nhân, viên chức Tuyên Quang đã tăng thêm 17% so với năm 1961, trong đó có gần 40% công nhân trẻ trưởng thành trong kế hoạch 5 năm . Số lượng công nhân quốc doanh chiếm gần 39%.

     Trải qua 5 năm thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội, tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã có bước trưởng thành nhanh chóng. Dưới sự chỉ đạo của Ban chấp hành Đảng bộ và sự giúp đỡ của Liên hiệp công đoàn khu tự trị Việt Bắc, công đoàn Tuyên Quang ngày càng thể hiện vị trí, vai trò, chức năng của mình. Đến tháng 9/1965 toàn tỉnh Tuyên Quang đã có gần 13.000 đoàn viên công đoàn được tập hợp trong 429 công đoàn cơ sở và nhiều công đoàn ngành .

     Trong kế hoạch 5 năm lần thứ Nhất, phong trào công nhân, viên chức và hoạt động công đoàn Tuyên Quang tiếp tục khẳng định sự trưởng thành của mình. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, Tổng công đoàn Việt Nam và của Liên hiệp công đoàn khu tự trị Việt Bắc, đội ngũ công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn Tuyên Quang vững vàng bước thời kỳ mới, thời kỳ vừa sản xuất vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

III. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc - giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà (1965 – 1975):

1, Công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965 – 1968):

     Cuối năm 1964 đầu năm 1965 do bị thất bại trong chiến lược chiến tranh đặc biệt ở miền Nam, đế quốc Mỹ đã dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Thông qua cuộc chiến tranh phá hoại, đế quốc Mỹ hòng cứu nguy cho chế độ Nguỵ quân, Nguỵ quyền, ngăn chặn sự chi viện của miền Băc đối với miền Nam.

     Đánh giá đúng âm mưu và thủ đoạn của đế quốc Mỹ , hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11 (1965) đã khẳng định :“ Trong cuộc chiến tranh này miền Nam vẫn là tiền tuyến lớn, miền Bắc vẫn là hậu phương lớn với nhiệm vụ vừa xây dựng vừa trực tiếp chiến đấu và chi viện cho miền Nam”. Nhiệm vụ của miền Bắc là “vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chiến đấu phải bảo vệ sản xuất”[99]. Do vậy, miền Bắc kịp thời chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng sang xây dựng kinh tế tăng cường lực lượng quốc phòng. Trong việc chuyển hướng này phải làm cho miền Bắc đủ mạnh , đáp ứng yêu cầu bảo vệ miền Bắc , chống lại chiến tranh phá hoại và phong toả của kẻ thù. Miền Bắc sãn sàng đối phó với tình hình mở rộng chiến tranh ở bất kỳ mức độ nào, hết lòng, hết sức chi viện cho cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam ruột thịt, đồng thời đáp ứng yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội .

     Từ tình hình Cách mạng cả nước, Tổng công đoàn Việt Nam đã tổ chức họp hội nghị Ban chấp hành mở rộng lần thứ 113 (khoá II), hội nghị đã chỉ rõ: “Lúc này, hơn lúc nào hết giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn cần nêu cao ý chí tiên phong Cách mạng, đáp lời kêu gọi của Đảng và Hồ Chủ tịch cùng toàn dân quyết tâm đến cùng chống Mỹ và thắng Mỹ nhằm xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tích cực ủng hộ Cách mạng miền Nam, tiến hành thống nhất nước nhà”[100].

     Quán triệt sự chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tỉnh uỷ Tuyên Quang đã chỉ đạo các cấp, các ngành chuyển hướng từ thời bình sang thời chiến, chuẩn bị chiến đấu để bảo vệ tỉnh nhà khi giặc Mỹ mở rộng chiến tranh. Hệ thống tổ chức phòng không nhân dân các cấp được nhanh chóng triển khai xây dựng. Hầu hết các nhà máy, công sở, nông, lâm trường đều thành lập các đơn vị tự vệ sẵn sàng chiến đấu. Đến tháng 4/1965, hơn 95 % các đơn vị kể trên đã thành lập tự vệ chiến đấu, 100% các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, nông – lâm trường đều thực hiện tốt mệnh lệnh phòng không sơ tán, các kho tàng được chuyển về nông thôn. Toàn tỉnh đã xây dựng được hơn 2 vạn hầm hào trú ẩn, tổ chức phòng không sơ tán cho hàng vạn nhân dân ở khu vực thị xã và những nơi khác.

     Tháng 5/1965 Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã họp hội nghị Ban chấp hành, xác định nhiệm vụ của phong trào công nhân và hoạt động công đoàn lúc này là: tập trung mọi lực lượng hoàn thành công tác phòng không sơ tán, bảo vệ sản xuất, bảo vệ nhà máy và tính mạng tài sản của nhân dân. Ban thường vụ Liên hiệp công đoàn chỉ đạo công đoàn các cấp, nhất là các nhà máy, xí nghiệp, nông – lâm trường ở vùng trọng điểm phải phối hợp với chuyên môn hoàn thành việc sơ tán, hạn chế tối đa sự thiệt hại khi kẻ thù ném bom, bắn phá. Khẩu hiệu của Liên hiệp công đoàn đề ra cho mọi người lúc này là “Vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu”, “ Hãy trả thù cho liệt sỹ Nguyễn Văn Trỗi, làm thêm sản phẩm vì anh Trỗi”.

     Tháng 7/1965 không quân Mỹ bắt đầu đánh phá Tuyên Quang, cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoạt của đế quốc Mỹ đã bắt đầu đến với quân dân tỉnh nhà. Nhận thực rõ về mức độ ác liệt lâu dài của cuộc chiến đấu này, Tỉnh uỷ Tuyên Quang đã nhận định : “Chiến tranh sẽ lan rộng, kéo dài, tỉnh ta có thể sẽ bị đánh phá ác liệt . Nhưng chúng ta có đủ khả năng để vừa chiến đấu đánh trả các cuộc không kích của địch vừa tiếp tục phát triển sản xuất, xây dựng hậu phương vững mạnh”[101]. Nhiệm vụ trọng tâm của quân và dân Tuyên Quang là tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng, xây dựng căn cứ địa hậu phương vững mạnh về mọi mặt, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại trên địa bàn tỉnh. Trong các nhiệm vụ trên thì chống chiến tranh phá hoại là trung tâm, tạo điều kiện để hoàn thành các nhiệm vụ khác.

     Từ tháng 8/1965, cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc đã ngày một ác liệt, máy bay địch đã đánh phá nhiều nơi ở Tuyên Quang và các tỉnh miền núi phía Bắc như Hà Giang, Cao Bằng, Lai Châu…Mục tiêu của chúng là nhằm vào các tuyến đường giao thông thuỷ - bộ , cầu cống và một số cơ sở kinh tế, văn hoá. Trước tình hình đó, hội nghị mở rộng của Ban chấp hành Tỉnh uỷ Tuyên Quang (tháng 2/1966) đã xác định nhiệm vụ chung của toàn tỉnh là: “Tăng cường đoàn kết dân tộc, phát huy truyền thống Cách mạng của khu căn cứ địa, động viên toàn Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh ra sức xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng kinh tế, nắm vững khâu trung tâm vừa sản xuất vừa chiến đấy, xây dựng tỉnh ta thành một căn cứ địa Cách mạng, góp phần bảơ vệ miền Bắc, chống chiến tranh phá hoại của địch, tích cực chi viện cho miền Nam và đồng thời đối phó với mọi tình thế, hoàn thành và sẵn sàng hoàn thành mọi kế hoạch của Đảng và nhà nước giao phó”[102]. Từ sau hội nghị này, các cấp, các ngành phải căn cứ vào nhiệm vụ do Tỉnh uỷ đề ra mà làm tốt công tác bảo đảm, bảo vệ, chuẩn bị khẩn trương tích cực, có trọng tâm, có kế hoạch phối hợp giữa kinh tế với quốc phòng; giữa chống chiến tranh phá hoạt với xây dựng kinh tế, bảo vệ trật tự trị an, duy trì sản xuất và đời sống của nhân dân .

    Quán triệt sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ và Tổng công đoàn Việt Nam, Liên hiệp công đoàn đã họp hội nghị mở rộng vào tháng 10/1965 xác định nhiệm vụ của tổ chức công đoàn : các cấp công đoàn phải đẩy mạnh việc tuyên truyền , giáo dục công nhân, viên chức, lao động nâng cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh cho công cuộc bảo vệ tỉnh nhà, cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cùng với giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn cả nước, đội ngũ công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn Tuyên Quang bước vào cuộc chiến đấu mới, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam. Khẩu hiệu của phong trào công nhân và hoạt động công đoàn là: tay búa tay súng, vừa sản xuất vừa chiến đấu. Trước mắt là thực hiện tốt nhiệm vụ phòng không sơ tán, đánh máy bay địch và hoàn thành nhiệm vụ sản xuất của năm 1965 .

     Sôi sục ý chí đánh Mỹ, cùng với nhân dân các dân tộc, đội ngũ công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn Tuyên Quang hưởng ứng các phong trào “Thanh niên Ba sẵn sàng”. Chị em nữ công nhân, viên chức ở các nhà máy, xí nghiệp, nông – lâm trường , cơ quan trường học - bệnh viên đã tích cực tham gia phong trào “Ba sẵn sàng” do trung ương hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam phát động. Các cấp công đoàn đã giáo dục công nhân, viên chức nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức giai cấp quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, chiến đấu “tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

     Tháng 12/1965 Thường vụ Liên hiệp công đoàn tỉnh đã họp bàn về công tác chuẩn bị chiến đấu, phòng không sơ tán của công nhân, viên chức ở các nhà máy xí nghiệp. Công đoàn phải vận động công nhân, viên chức đi sâu vào 3 nhiệm vụ trọng tâm là : Đẩy mạnh sản xuất – công tác, bảo vệ sản xuất và sẵn sàng chiến đấu. Từ đây các cấp công đoàn đã cùng với chuyên môn chỉ đạo công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn đào hầm hào, tham gia các đội tự vệ chiến đấu. Kết quả là đã có 100% thanh niên công nhân, Đảng viên và những người có sức khoẻ đã tham gia. Các ngành y tế, giao thông, bưu điện đều thành lập các đơn vị xung kích, sẵn sàng ứng cứu đảm bảo mọi hoạt động khi địch đánh phá. Đặc biệt công đoàn các đoàn vận tải thuỷ trên sông Lô đã vận động mọi đoàn viên cam kết không để ách tắc trên tuyến vận tải quan trọng này.

     Nhằm thống nhất sự chỉ đạo và đẩy mạnh phong trào thi đua “tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược”, Ban Thường vụ Liên hiệp công đoàn đã phối hợp với Thường trực uỷ ban hành chính tỉnh tổ chức hội nghị chuyên đề về thi đua vào cuối năm 1965. Hội nghị đã tổng kết phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa trong công nhân, viên chức, lao động biểu dương các đơn vị tiên tiến, uốn nắn các đơn vị yếu kém trong sản xuất công tác. Trong hoàn cảnh có chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất lại vừa sẵn sàng chiến đấu, nhưng phong trào thi đua của công nhân, viên chức đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là trong các ngành giao thông, giáo dục, bưu điện .

     Kết thúc năm 1965, dù cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đã làm cho Tuyên Quang chuyển hướng từ thời bình sang thời chiến. Những nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế của Tuyên Quang vẫn đạt được nhiều thành tích quan trọng. Các chỉ tiêu về sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải, y tế giáo dục, trật tự trị an và ổn định đời sống nhân dân vẫn được đảm bảo. Đây là thắng lợi bước đầu của công nhân, viên chức, lao động và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang trong năm đầu cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại .

     Bước sang năm 1966, cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đã diễn ra ác liệt mức độ đánh phá của kẻ thù đối với Tuyên Quang ngày một nhiều hơn. Cả năm 1966 đã có hơn 400 tốp với hàng ngàn máy bay đã xâm nhập, bắn phá Tuyên Quang . Máy bay kẻ thù đã tập trung đánh phá 40 địa điểm, 26 xã với hàng ngàn tấn bom đạn làm chết nhiều người và gây nhiều thiệt hại vật chất cho nhân dân.

     Phối hợp với các đơn vị quân đội, lực lượng dân quân tự vệ Tuyên Quang đã chiến đấu chống lại quân thù. Tự vệ các nhà máy xí nghiệp, nông – lâm trường đã thực sự là nòng cốt của lưới lửa phòng không nhân dân. Đến thắng 5/1966 toàn tỉnh Tuyên Quang đã có 74 đơn vị tự vệ, 40 trạm quan sát với hàng ngàn công nhân, viên chức các nhà máy xí nghiệp tham gia. Các đơn vị tự vệ được bố trí tham gia bảo vệ các mục tiêu quan trọng như : khu vực thị xã Tuyên Quang, cầu Bắc Mục, cầu sắt Sơn Dương, tổng kho 820… Sự hiệp đồng tác chiến giữa lực lượng dân quân, tự vệ với các đơn vị chủ lực phòng không đã ngày càng chặt chẽ, đưa đến chiến công đầu là ngày 20/7/1966 bắn rơi máy bay địch bằng súng bộ binh trên đất Tuyên Quang .

     Nhằm góp phần động viên công nhân, viên chức và lực lượng dân quân tự vệ trong chiến đấu chống máy bay địch, Liên hiệp công đoàn đã chỉ đạo công đoàn các cấp tổ chức 425 buổi biểu diễn và chiếu phim phục vụ cho hàng vạn lượt quần chúng công nhân, viên chức. Các sinh hoạt này đã góp phần nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần, thúc đẩy phong trào thi đua lao động sản xuất, tạo nên phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” trong công nhân, viên chức. Đó là công đoàn ngành giao thông đảm bảo huyết mạch đi lại trên sông Lô, trên quốc lộ 2; công đoàn ngành bưu điện động viên công nhân, viên chức đảm bảo mọi thông tin liên lạc; công đoàn ngành Giáo dục tổ chức tốt việc sơ tán và duy trì học tập cho học sinh; công đoàn ngành Lâm nghiệp tổ chức phong trào khai thác gỗ và trồng rừng được gần 1500 ha; công đoàn ngành Thương nghiệp vận động cán bộ, công nhân nêu cao tinh thần phục vụ bảo đảm các mặt hàng thiết yếu cho đời sống nhân dân[103].

     Tháng 7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước tăng cường đoàn kết, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thế bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ, không có gì quý hơn đọc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”[104].

     Quán triệt lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Thường vụ tỉnh uỷ ra chỉ thị mở đợt tuyên truyền, giáo dục chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân học tập lời kêu gọi của Người, xây dựng quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Lực lượng dân quân tự vệ tích cực cơ động, thi đua bắn máy bay địch, bảo vệ nhân dân. Đơn vị tự vệ huyện Hàm Yên, tự vệ Phan Thiết (thị xã Tuyên Quang), trạm gác Tràng Đà – Yên Sơn… với quân số chủ yếu là công nhân, viên chức đã phối hợp với trung đoàn phòng không 246 chiến đấu nhiều trận, bảo vệ các mục tiêu quan trọng.

     Cuối năm 1966, Ban Thường vụ Liên hiệp công đoàn phối hợp với thường vụ Hội liên hiệp phụ nữ Tuyên Quang, tổ chức tổng kết phong trào “3 đảm đang” trong nữ công nhân, viên chức. Phong trào này đã lôi cuốn chị em nữ công nhân, viên chức ngành thủ công nghiệp quyết tâm phấn đấu đạt danh hiệu tổ đội Lao động xã hội chủ nghĩa; Ngành thương nghiệp khắc phục khó khăn, đưa hàng hoá phục vụ nhân dân, phục vụ bộ đội; chị em ngành y tế đảm bảo chăm sóc y tế, phục vụ cứu thương kịp thời. Đội ngũ giáo viên nữ các cấp học khắc phục bao khó khăn, bảo đảm chương trình và chất lượng giảng dạy. Chị em công nhân, viên chức ngành giao thông, nổi bật là chị em đơn vị B2, Ty giao thông tỉnh được công nhân là đơn vị quyết thắng năm 1966. Cùng với lực lượng phụ nữ trong tỉnh, chị em nữ công nhân viên chức đã thực hiện tốt công tác phòng không sơ tán, đào được 63.122 hầm gia đình, 16.645 hầm trú ẩn cá nhân, 9.408 hầm công cộng và hàng trăm ngàn mét hào ở các nhà máy, xí nghiệp, cơ quan[105].

     Cùng với lực lượng nữ công nhân, viên chức lực lượng thanh niên là công nhân, viên chức của tỉnh luôn là nòng cốt của phong trào “3 sẵn sàng". Kể từ khi cuộc chiến tranh phá hoại nổ ra, trên địa bàn Tuyên Quang, phong trào “3 sẵn sàng” đã được phát huy mạnh mẽ, lôi cuốn 95% thanh niên là công nhân, viên chức, lao động tham gia. Tháng 12/1966 , Tỉnh Đoàn thanh niên đã phối hợp với Liên hiệp công đoàn và các đoàn thể khác tổ chức khác, tổng kết phong trào“3 sẵn sàng”. Trong phong trào “3 sẵn sàng”, lực lượng thanh niên là công nhân, viên chức đã có gần 1500 người đạt danh hiệu xuất sắc, đã có hàng trăm thanh niên được kết nạp Đoàn, được giới thiệu vào Đảng và hàng trăm người khác gia nhập lực lượng vũ trang lên đường đánh Mỹ.

       Tổng kết một năm phong trào thi đua yêu nước, thi đua “tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược”. Năm 1966 số đơn vị công đoàn cơ sở đạt danh hiệu lao động xã hội chủ nghĩa tăng gấp 2 lần so với năm 1965, số đoàn viên công đoàn đạt danh hiệu lao động tiên tiến đạt 86%. Việc phấn đấu đạt các danh hiệu thi đua được công đoàn các cấp gắn với việc xây dựng tổ công đoàn 4 tốt, chi bộ 4 tốt, chi đoàn thanh niên 4 tốt. Hoạt động công đoàn cơ sở đã năng động hơn, đi sâu vào việc vận động đoàn viên tích cực cải tiến sản xuất, phát huy sáng kiến, tăng năng suất lao động hoàn thành kế hoạch của nhà máy, xí nghiệp. Kết thúc năm 1966, toàn tỉnh đã có 364 tổ công đoàn, 56 công đoàn bộ phận và gần 5400 đoàn viên công đoàn đạt danh hiệu thi đua các cấp[106].

     Những tháng cuối năm 1966 địch đánh phá, các mục tiêu như cầu Bắc Mục, cầu Nẻ, cầu Sắt Sơn Dương, huyện lỵ Hàm Yên, nông trường sông Lô, nhà máy Gạch Chịu lửa…bị đánh phá nhiều lần. Địch còn đánh phá vào nhiều điểm y tế, văn hoá, giáo dục, dân cư làm chết nhiều người. Điển hình là địch ném bom phá huỷ phố Bắc Mục (Hàm Yên), đánh huỷ diệt nhiều phố ở thị xã Tuyên Quang , phố Đội Cấn (Yên Sơn)…

    Việc kẻ thù tăng cường đánh phá đã ảnh hưởng nhiều đến phong trào công nhân, hoạt động công đoàn cũng như nhiệm vụ xây dựng phát triển kinh tế của tỉnh nhà. Tổng kết năm 1966, phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã đạt được 3 nội dung cơ bản sau đây :

  • Động viên được mọi lực lượng quần chúng công nhân, viên chức, lao động tham gia tích cực vào sản xuất và chiến đấu.
  • Bồi dưỡng lực lượng quần chúng xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức đáp ứng yêu cầu cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại.
  • Xây dựng và tiếp tục củng cố tổ chức công đoàn ngày càng vững mạnh.

     Tuy nhiên phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Tuyên Quang năm 1966 cũng bộc lộ một số hạn chế như : Phổ biến và thực hiện các Nghị quyết của Đảng, của Tổng công đoàn và Liên hiệp công đoàn trong công nhân, viên chức chưa được sâu rộng và kịp thời; công tác tổ chức và chỉ đạo có lúc còn chung chung, chưa xây dựng được những điển hình tốt, tiêu biểu; chưa coi trọng việc tổng kết rút kinh nghiệm hoạt động công đoàn cơ sở.

      Bước sang năm 1967, năm kết thúc kế hoạch 2 năm chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế Tuyên Quang, phong trào công nhân và hoạt động công đoàn tỉnh đứng trước những thuận lợi và khó khăn. Tháng 2/1967, Liên hiệp công đoàn tỉnh mở hội nghị Ban chấp hành mở rộng xác định rõ những nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động công đoàn, trong đó coi trọng việc tuyên truyền giáo dục, bảo vệ đời sống, đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất chiến đấu trong công nhân, viên chức, lao động . Trong hoàn cảnh cuộc chiến tranh phá hoại ngày càng khốc liệt, thì nhiệm vụ vừa sản xuất, vừa chiến đấu được xem là nội dung quan trọng của phong trào thi đua yêu nước.

     Với khẩu hiệu “tay búa tay súng”, kết hợp với các phong trào “3 đảm đang” trong nữ công nhân, viên chức, “3 sẵn sàng” của thanh niên công nhân, viên chức, “3 quyết tâm” của cán bộ khoa học kỹ thuật… các cấp công đoàn Tuyên Quang tiếp tục dấy lên phong trào thi đua lao động, sản xuất có hiệu quả trong nhà máy, xí nghiệp, lâm trường. Do yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhiều chỉ tiêu định mức sản xuất đã tăng cao hơn 1966. Bên cạnh đó thực hiện sự chi viện cho tiền tuyến lớn, nên một số lượng công nhân, viên chức là thanh niên đã được điều động vào quân đội. Chỉ riêng đợt huy động nghĩa vụ tháng 7/1967, Tuyên Quang đã có hơn 800 công nhân, viên chức và một số cán bộ công đoàn tham gia quân đội. Với tinh thần thi đua “Tất cả vì chiến thắng giặc Mỹ xâm lược”, phong trào công nhân, viên chức và hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã đi vào chiều sâu có hiệu quả. Đại đa số công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn vẫn đứng vững trên mặt trận sản xuất và chiến đấu. Khẩu hiệu hành động lúc này là “Vững tay búa, chắc tay súng”, “Làm thêm giờ, nhận thêm việc”, “Giờ làm chống Mỹ”. Do vậy nhiều định mức, kế hoạch sản xuất được hoàn thành đúng thời gian.

     Trong 6 tháng đầu năm 1967, nhiều công đoàn cơ sở đã tổ chức công nhân, viên chức phấn đấu tăng năng xuất lao động, tăng ngày công. Có công nhân trong một tháng đã đạt ngày công là 30 – 40 công; ở nông trường Tân Trào năng suất hái chè đã đạt từ 45 – 55 kg/công; nông trường Tháng 10 đã có 35 công nhân đạt danh hiệu kiện tướng . Hầu hết các nông – lâm trường đều phát động chiến dịch 70 ngày thi đua diệt Mỹ .

      Nổi bật phong trào thi đua đầu năm 1967 là chị em nữ công nhân, viên chức. Tiếp nối tinh thần thi đua “3 đảm đang”, toàn tỉnh đã có 19 tổ lao động nữ được công nhận danh hiệu thi đua lao động xã hội chủ nghĩa, trong đó có nhiều tổ đạt danh hiệu thi đua 3 đến 4 năm. Chị em nữ công nhân, viên chức các ngành giao thông, bưu điện, thương mại, y tế - giáo dục là những điển hình của phong trào thi đua trong công nhân, viên chức, lao động Tuyên Quang.

      Trong hoàn cảnh chiến tranh vừa sản xuất, vừa chiến đấu nên công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được coi trọng. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng công đoàn và Liên hiệp công đoàn khu tự trị Việt Bắc, thường vụ Liên hiệp công đoàn đã có nhiều biện pháp tuyên truyền giáo dục công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn. Hình thức giáo dục chủ yếu là tổ chức học tập, phổ biến các Nghị quyết để mọi người thấm nhuần chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Lấy các gương người tốt, tập thể tiêu biểu để nhân điển hình tiên tiến, đấu tranh chống lại những tư tưởng, hành động tiêu cực ngại khó, ngại gian khổ hy sinh. Thông qua công tác tuyên truyền giáo dục để gắn liền với thực tế sản xuất, công tác. Trong 2 năm 1966 – 1967, Liên hiệp công đoàn đã phối hợp với Ban tuyên giáo tỉnh uỷ và các đoàn thể khác, tổ chức gần 256 cuộc nói chuyện thời sự, tuyên truyền chính sách của Đảng và Nhà nước.

     Thực hiện chỉ thị của Tổng công đoàn Việt Nam về việc tổ chức Đại hội công đoàn các cấp, thường vụ Liên hiệp công đoàn đã chỉ đạo các cấp công đoàn hoàn thành việc này trước tháng 7/1967. Việc tổ chức Đại hội công đoàn các cấp phải gắn với phong trào thi đua “Dũng sỹ 3 điểm cao” cho mỗi đoàn viên công đoàn. Phong trào này đã lôi cuốn đông đảo công nhân, viên chức đăng ký tham gia trở thành dũng sỹ đạt 3 điểm cao. Nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, nhiều cá nhân và tập thể xuất sắc đã xuất hiện trong phong trào này. Cuối năm 1967, Liên hiệp công đoàn tỉnh đã công nhận danh hiệu “Dũng sỹ 3 điểm cao” cho 756 đoàn viên công đoàn và 45 tập thể ở các nông – lâm trường, xí nghiệp, cơ quan. Việc hoàn thành Đại hội công đoàn các cấp và phong trào thi đua phấn đấu đạt danh hiệu “Dũng sỹ 3 điểm cao” đã góp phần quan trọng vào thành công của hoạt động công đoàn.

     Tháng 9/1967 Ban Bí thư Trung ương Đảng ra nghị quyết 167 – NQ – TW về “Tăng cường công tác vận động công nhân và hoạt động công đoàn trước tình hình mới”. Nghị quyết đã nêu rõ: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động công nhân và hoạt động công đoàn là một điều kiện quyết định cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của giai cấp công nhân trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”.

      Nghị quyết 167 của Đảng một lần nữa khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang tổ chức việc vận động công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn tăng cường phục vụ sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh chăn nuôi, giành 5 tấn thóc/ha chống Mỹ. Cuộc vận động này được triển khai rộng lớn đến mọi ngành, mọi cấp trong tỉnh. Qua đó làm cho công nhân, viên chức nhận rõ đường lối phát triển nông nghiệp và phát triển kinh tế thời chiến của Đảng, xác định trách nhiệm của công nhân, viên chức trong sản xuất nông nghiệp và xây dựng tỉnh nhà. Để hoàn thành chỉ tiêu kinh tế của tỉnh nhà, Liên hiệp công đoàn đã phát động phong trào thi đua “Ngày làm không đủ, tranh thủ làm đêm” trong công nhân, viên chức, lao động. Phong trào đã đem lại nhiều hiệu quả trong xây dựng kinh tế. Có những đơn vị năng suất lao động của công nhân đã từ 30 đến 40 công/tháng.

     Năm 1967, cùng sự phát triển của công nghiệp địa phương là nhiều nông – lâm trường được xây dựng thêm, đưa kinh tế của Tuyên Quang có nhiều chuyển biến. Trong đó sản xuất lương thực quy thóc đạt 78.873 tấn, tăng 11% so với năm 1964; sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp đã đảm bảo cung cấp tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng tại chỗ[107]. Năm 1967 đã đầu tư xây dựng 30 cơ sở sản xuất công nghiệp như mỏ than Linh Đức, cơ khí Na Hang, cơ khí Sơn Dương, các xưởng sửa chữa ô tô, tàu thuyền vận tải… Sự phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng đã đưa đội ngũ công nhân, viên chức Tuyên Quang không ngừng tăng về số lượng. Đến tháng 12/1967 đội ngũ công nhân, viên chức Tuyên Quang đã có 24.046 người, trong đó lực lượng nòng cốt là công nhân thuộc các đơn vị quốc doanh, nhà nước.

     Để xây dựng tổ chức công đoàn ngày càng vững mạnh, Ban Thường vụ Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã chỉ đạo các cấp công đoàn đẩy mạnh việc tuyên truyền kết nạp đoàn viên. Rút kinh nghiệm của các năm trước, năm 1967 công tác phát triển đoàn viên chú ý nhiều đến tính quần chúng rộng lớn, tính tự nguyện của người lao động. Vì vậy kết thúc năm 1967 số lượng đoàn viên công đoàn Tuyên Quang đã tăng lên 21.122 người, thuộc 123 công đoàn các cấp cơ sở. Trong đó lực lượng đoàn viên công đoàn ở các nông trường, lâm trường đã tăng thêm 25% so với năm 1966[108].

      Trên cơ sở phát triển lực lượng đoàn viên, Liên hiệp công đoàn tập trung vào việc xây dựng công đoàn cơ sở 4 tốt, lấy đó làm trọng tâm xây dựng tổ chức công đoàn. Hầu hết các công đoàn cơ sở, ngành đều đăng ký phấn đấu đạt danh hiệu 4 tốt. Nhiều ngành như Thuỷ lợi; Lâm trường; Giao thông; Bách hoá; Bưu điện đã có từ 65% - 90% tổ công đoàn đạt danh hiệu 4 tốt. Cùng với việc phát triển lực lượng đoàn viên, xây dựng tổ công đoàn 4 tốt, Liên hiệp công đoàn còn chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Năm 1967 công đoàn Tuyên Quang có 130 cán bộ công đoàn chuyên trách và 3379 cán bộ không chuyên trách hoạt động từ tỉnh đến cơ sở; trong số cán bộ chuyên trách có 27 đồng chí nữ và 36 đồng chí người dân tộc. Quán triệt nguyên tắc “cán bộ là quyết định”, Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn đã tập trung nhiều hơn vào việc đào tạo, bồi dưõng cán bộ. Trong 2 năm 1966 – 1967, Tuyên Quang đã đào tạo, bồi dưỡng cho 2156 cán bộ công đoàn cơ sở, 659 thư ký công đoàn bộ phận và đưa 10 đồng chí đi học tập dài hạn ở Trường Công đoàn Trung ương[109]. Qua đó làm cho tổ chức công đoàn ngày càng vững mạnh, làm chỗ dựa vững chắc, tin cậy của cấp uỷ Đảng và Chính quyền cơ sở .

     Năm 1968 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã thu được nhiều thắng lợi quan trọng , kẻ thù đã phải xuống thang và chịu ngồi đàm phán hoà bình tại Pari. Chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc đã bị thất bại thảm hại. Miền Bắc đã bắn rơi 3243 máy bay, bắn cháy hàng trăm tàu chiến và bắt sống, tiêu diệt hàng ngàn giặc lái, biệt kích của Mỹ. Riêng Tuyên Quang quân và dân tỉnh ta đã bắn rơi 16 máy bay, bắt sống nhiều giặc lái, trong đó có chiếc thứ 200 và 300, tiếp tục xây dựng và bảo vệ vững chắc Tuyên Quang.

     Bước vào năm 1968 tỉnh uỷ Tuyên Quang đã xác định nhiệm vụ trọng tâm của quân, dân trong tỉnh là :

  • Tập trung sức người, sức của ở địa phương và miền xuôi lên xây dựng và phát triển kinh tế vững chắc toàn diện đáp ứng yêu cầu kinh tế - quốc phòng .
  • Ra sức phát triển nông nghiệp, nhất là lương thực - thực phẩm đồng thời phát triển cây công nghiệp.
  • Tích cực phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp, giải quyết tốt hơn về nhu cầu của nhân dân. Coi trọng công nghiệp địa phương, phục vụ tốt công nghiệp Trung ương và xuất khẩu.
  • Tích cực phát triển giao thông vận tải, củng cố quốc phòng bảo đảm an ninh chính trị, trật tự trị an .
  • Làm tốt công tác lưu thông phân phối, tích cực đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế.

    Nhằm tăng cường lực lượng công nhân, viên chức, tỉnh uỷ Tuyên Quang chủ trương: Đẩy mạnh việc tuyển chọn thanh niên, lao động vào làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp; tổ chức đào tạo công nhân kỹ thuật, công nhân trẻ người dân tộc. Trên cơ sở đó tăng cường vị trí, vai trò của tổ chức công đoàn. Trước mắt Tỉnh uỷ yêu cầu Liên hiệp công đoàn phải có kế hoạch xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ và cán bộ người dân tộc.

     Quán triệt sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, ngay từ đầu năm 1968 Liên hiệp công đoàn đã phát động phong trào “Thi đua lao động sản xuất, hoàn thành kế hoạch năm 1968” trong công nhân, viên chức, lao động. Công đoàn các cấp đã xây dựng các chỉ tiêu thi đua về sản xuất, về danh hiệu tổ đội và cá nhân xã hội chủ nghĩa. Kết quả là toàn tỉnh đã có 80% đến 85% tập thể và cá nhân đăng ký phấn đấu giành các danh hiệu thi đua. Trong phong trào này, nhiều đơn vị và cá nhân đã vươn lên như công nhân, viên chức mỏ kẽm Sơn Dương, xí nghiệp tàu thuyền Sông Lô, xí nghiệp 5/8, nhà máy cơ khí, nông trường Trần Phú…đã hoàn thành kế hoạch năm trước 45 ngày. Công nhân viên chức ngành giao thông vận tải, bưu điện, thương nghiệp đã làm tốt công tác lưu thông phân phối, đảm bảo thông tin liên lạc, giao thông vận tải.

     Ngành y tế - giáo dục đã vượt qua nhiều khó khăn thiếu thốn, đưa sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ phục vụ và phát triển giáo dục lên một bước. Năm 1968 số giường bệnh đã tăng 16,5% và số học sinh các cấp đã tăng thêm 21% so với năm 1966. Đây thực sự là một cố gắng lớn của công nhân, viên chức và nhân dân Tuyên Quang trong hoàn cảnh một tỉnh miền núi còn rất nhiều khó khăn.

Hoạt động công đoàn Tuyên Quang năm 1968 hướng vào việc phát huy vai trò làm chủ tập thể của công nhân, viên chức. Một số công đoàn cơ sở đã làm tốt công tác chăm lo, bảo vệ đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân, lao động. Công đoàn các ngành công nghiệp, giao thông, giáo dục…đã chỉ đạo tốt công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất đề ra. Ở nhiều nơi vai trò của công đoàn được đề cao hơn, nhất là trong việc tham gia quản lý và phân phối lưu thông. Năm 1968 đã có 105 công đoàn cơ sở trực thuộc được công nhận đơn vị 4 tốt, hơn 70% tổ công đoàn đạt danh hiệu thi đua các cấp.

Tuy nhiên hoạt động công đoàn Tuyên Quang năm 1968 vẫn còn một số hạn chế như : kết hợp được công tác trước mắt và lâu dài còn chưa thường xuyên liên tục, nhận thức được nhiệm vụ trọng tâm và các công tác khác còn nhiều hạn chế. Nhiều cán bộ công đoàn còn hoạt động theo lối hành chính, sự vụ, chưa có kiến thức về quản lý kinh tế, kỹ thuật, hiểu về đường lối vận động công nhân của Đảng còn chưa sâu. Hoạt động công đoàn chưa thật toàn diện, chưa vận động có hiệu quả công nhân, viên chức tham gia vào quản lý sản xuất và phân phối lưu thông. Một số công đoàn bộ phận chưa làm tốt việc thay mặt công nhân, viên chức, lao động trong quản lý nhà máy, xí nghiệp, cơ quan.

Tháng 10/1968 cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta đã chuyển sang giai đoạn mới, đế quốc Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại đối với nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Miền Bắc nói chung và Tuyên Quang nói riêng tạm thời có hoà bình, lặng tiếng bom rơi.

Trải qua 4 năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1965 – 1968), cùng với nhân dân các dân tộc, đội ngũ công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn Tuyên Quang vừa chiến đấu, vừa tiếp tục xây dựng phát triển kinh tế, thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Đây là những năm tháng có nhiều khó khăn, thử thách đối với đội ngũ công nhân, viên chức và tổ chức công đoàn Tuyên Quang. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, của Tổng công đoàn Việt Nam và Liên hiệp công đoàn khu tự trị Việt Bắc, công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn tỉnh ta đã ra sức thi đua lao động sản xuất, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, gương mẫu tận tuỵ, góp phần quan trọng vào những thành tích chung của Tuyên Quang trong 4 năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

Thực tiễn phong trào công nhân, viên chức và hoạt động công đoàn Tuyên Quang trong 4 năm chiến đấu chống chiến tranh phá hoại để lại nhiều bài học kinh nghiệm trong hoạt động :

  • Một là : Phải quán triệt sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, của Tổng công đoàn Việt Nam và sự giúp đỡ công tác của chính quyền và các đoàn thể. Từ đó vận dụng một cách linh hoạt, khéo léo, phù hợp với thực tiễn của phong trào công nhân, viên chức và hoạt động công đoàn .
  • Hai là : Phải gắn liền nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội với mục tiêu xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn ngày càng vững mạnh, lấy xây dựng phát triển kinh tế làm nhân tố đưa lực lượng công nhân, viên chức, lao động thường xuyên được phát triển về số lượng và chất lượng, làm sơ sở để xây dựng tổ chức công đoàn, ngày càng lớn mạnh.
  • Ba là : Phong trào công nhân, viên chức và hoạt động công đoàn trong 4 năm qua đã thể hiện sự linh hoạt giữa nhiệm vụ sản xuất chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Thông qua việc hoàn thành nhiệm vụ sản xuất để xây dựng lực lượng chiến đấu, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị - tư tưởng cho công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn .
  • Bốn là : Coi trọng công tác cán bộ, tổ chức phát hiện và đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ cán bộ công đoàn gắn với việc đào tạo, bồi dưỡng và đề bạt cán bộ. Trong công tác cán bộ phải quán triệt đầy đủ, kịp thời chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước.
  • Năm là : Phải thường xuyên tổng kết, rút ra các ưu điểm, hạn chế và bài học kinh nghiệm của các phong trào thi đua trong công nhân, viên chức, lao động. Khắc phục nhanh chóng bệnh quan liêu, hành chính, xa rời thực tiễn, chung chung không có hiệu quả.

2. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong khôi phục, phát triển kinh tế và chống chiến tranh phá hoại lần thứ II (1969 – 1972):

Tháng 11/1968 đế quốc Mỹ phải chấm dứt vô điều kiện cuộc chiến tranh phá hoại đối với nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, đây là thắng lợi to lớn của dân tộc ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Miền Bắc nói chung, Tuyên Quang nói riêng bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế, tiếp tục chi viện cho Miền Nam và sẵn sàng chiến đấu nếu kẻ thù gây lại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ II.

Cuối năm 1968 Bộ chính trị Trung ương Đảng ra nghị quyết về khôi phục và phát triển kinh tế Miền Bắc. Tiếp đó Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 19 đã cụ thể hoá nhiệm vụ, mục tiêu việc khôi phục, phát triển kinh tế trong thời gian tới là :

  • Khôi phục và mở rộng các cơ sở vật chất bị đánh phá .
  • Khôi phục và cải tiến chế độ quản lý.
  • Khôi phục và cải tiến định mức về kỹ thuật, về giá thành, về năng suất, về tiêu hao vật chất.
  • Xây dựng một số cơ sở mới về công nghiệp, nông nghiệp; xây dựng một số khu kinh tế mới[110].

Quán triệt Nghị quyết của Đảng về khôi phục, phát triển kinh tế, Ban chấp hành Tổng công đoàn Việt Nam họp tháng 12/1968 đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ của phong trào công nhân, công đoàn cả nước là: “Giáo dục và tổ chức công nhân, viên chức phát huy vai trò làm chủ tập thể, hăng say sản xuất công tác, từng bước thực hiện cách mạng kỹ thuật, thiết thực tham gia quản lý xí nghiệp, quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước, nhất là quản lý lao động ; đồng thời cảnh giác chống địch và khắc phục những khó khăn về đời sống, để thiết thực hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch , góp phần to lớn vào việc xây dựng vào bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm tròn nghĩa vụ đối với miền Nam ruột thịt”[111]. Ban chấp hành Tổng công đoàn yêu cầu các cấp công đoàn phải nhận thức sâu sắc đường lối của Đảng từ đó vận động công nhân, viên chức thi đua lao động sản xuất, biến nghị quyết của Đảng thành hiện thực, thành sức mạnh to lớn của cả dân tộc và giai cấp công nhân.

Cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ cũng gây ra nhiều thiệt hại về vật chất, con người cho tỉnh Tuyên Quang, nhiệm vụ chủ yếu của quân, dân Tuyên Quang là nhanh chóng khôi phục, ổn định và phát triển kinh tế - chính trị - xã hội. Tháng 4/1969, Đại hội Đảng bộ Tuyên Quang lần thứ V đã họp đề ra nhiệm vụ, biện pháp và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch kinh tế 2 năm 1969 – 1970. Trong đó sản xuất nông nghiệp (trọng tâm là lương thực) đạt 90.000 tấn, năng xuất lúa đạt 4,2 tấn/ha; đàn trâu có 65.500 con, bò hơn 60000 con, lợn hơn 120.000 con, gia cầm phải tăng hơn 25%...Về công nghiệp năm 1970 phải tăng 20% so với năm 1968, trang bị 100 điểm cơ khí nhỏ cho các hợp tác xã, mở thêm các ngành nghề mới thuộc công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp; đẩy mạnh khôi phục, phát triển giao thông, liên lạc; y tế - giáo dục phải được chú ý. Năm 1970 toàn tỉnh phải có 50.000 học sinh phổ thông cấp II, mở rộng hơn nữa các cấp học. Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh đã thúc đẩy phong trào công nhân, viên chức và hoạt động công đoàn phát triển, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu trên.

Tháng 1/1969 Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang họp hội nghị mở rộng, đánh giá phong trào công nhân, viên chức và hoạt động công đoàn tỉnh trong 4 năm chống chiến tranh phá hoại. Hội nghị đã làm rõ những ưu điểm, những cống hiến to lớn của đội ngũ công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và sản xuất công tác. Hội nghị đề ra nhiệm vụ chính của hoạt động công đoàn Tuyên Quang trong thời gian tới là :

  • Tổ chức và vận động công nhân, viên chức tham gia xây dựng và thực hiện kế hoạch khôi phục, phát triển kinh tế tỉnh nhà. Đẩy mạnh cao trào thi đua chống Mỹ cứu nước.
  • Chăm lo, bảo vệ và giải quyết tốt các vấn đề cấp bách về đời sống của công nhân, viên chức, lao động .
  • Tiếp tục tuyên truyền, giáo dục và bồi dưỡng về chính trị, văn hoá kỹ thuật cho công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn .
  • Củng cố tổ chức công đoàn vững mạnh, chú trọng công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, nâng cao hiệu quả vận động quần chúng của các cấp công đoàn.
  • Đẩy mạnh công tác nữ công, làm tốt công tác vận động nữ công nhân, viên chức.

Trong bối cảnh từ chiến tranh chuyển sang hoà bình, đời sống của công nhân, viên chức có nhiều xáo trộn. Các hoạt động kinh tế, nề nếp sản xuất, tác phong công nghiệp của một bộ phận công nhân, viên chức bị lơi lỏng, mất cân đối, kỷ luật lao động , trình độ tay nghề, ý thức chính trị có phần bị sa sút. Bên cạnh đó có nhiều nhà máy, xí nghiệp…chưa ổn định sản xuất, nguyên vật liệu thiếu thốn.

Năm 1969 là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tuyên Quang lần thứ V về khôi phục và phát triển kinh tế. Do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan nên năm 1969 Tuyên Quang chưa hoàn thành được một số chỉ tiêu đã đề ra . Như sản lượng thóc chỉ đạt 78,3%, trồng rừng đạt 80%; giá trị sản lượng công nghiệp, thủ công nghiệp đạt 73,3% , thu ngân sách đạt 95,7%. Bên cạnh đó có một số chỉ tiêu vượt như chăn nuôi trâu bò đạt 100,7%, gia cầm đạt 103%. Các lĩnh vực y tế, giáo dục, giao thông, bưu điện đều đạt chỉ tiêu đề ra[112].

Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, các cấp công đoàn ở Tuyên Quang đã tổ chức, động viên công nhân, viên chức vượt qua mọi khó khăn để ổn định đời sống, tổ chức lại sản xuất, khẩn trương khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh. Nét nổi bật của phong trào công nhân, viên chức và hoạt động công đoàn lúc này là tổ chức tốt các phong trào thi đua lao động sản xuất, góp phần vào việc thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội. Đợt thi đua “Lập công mừng thọ Hồ Chủ tịch 79 tuổi” đã mở đầu phong trào cách mạng của công nhân, viên chức. Với nội dung thi đua là : làm theo lời Bác, hoàn thành vượt mức kế hoạch, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, phát triển kinh tế địa phương . Công đoàn các ngành lâm nghiệp, giao thông, y tế, giáo dục và công đoàn các nông trường Trần Phú, Sông Lô đã có nhièu sáng kiến động viên công nhân, viên chức hoàn thành sớm kế hoạch năm 1969.

Giữa lúc cả nước nói chung và Tuyên Quang nói riêng đang lao động khẩn trương để khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh thì Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần. Đây là một tổn thất to lớn của dân tộc ta, của giai cấp công nhân và của cả nhân loại. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng biến đau thương thành hành động Cách mạng, công đoàn Tuyên Quang đã triển khai sâu rộng phong trào thi đua “Làm theo di chúc của Bác Hồ”, phong trào thi đua có ý nghĩa to lớn về chính trị và tác động mạnh mẽ đến sản xuất kinh tế. Về chính trị đó là học tập và làm theo di chúc của Bác, phấn đấu làm người công nhân tốt, phấn đấu trở thành Đảng viên lớp Hồ Chí Minh; Về kinh tế là phấn đấu hoàn thành kế hoạch năm 1970 trước thời hạn; Về xây dựng tổ chức công đoàn thì Liên hiệp công đoàn đề ra chỉ tiêu là đến năm 1972 phải kết nạp thêm 2000 đoàn viên công đoàn, đưa tỷ lệ đoàn viên công đoàn chiếm hơn 90% tổng số công nhân, viên chức, lao động[113].

Cùng với tổ chức phong trào thi đua lao động sản xuất, công đoàn các cấp còn chú ý bảo vệ quyền lợi, chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho công nhân, viên chức, lao động. Liên hiệp công đoàn đã thành lập bộ phận kiểm tra, giám sát việc thi hành các chế độ chính sách đối với người lao động. Do hậu quả của chiến tranh và trận lũ lụt tháng 7,8/1969 đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống người lao động, cả năm 1969 đã có hơn 3000 cán bộ, công nhân, viên chức, lao động liên tục nghỉ ốm hoặc mất sức lao động.

Tháng 12/1969 Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh họp và kiểm điểm lại một năm thực hiện kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế . Về nhiệm vụ, mục tiêu của năm 1970, Hội nghị đã xác định : Phải phát động một phong trào hành động Cách mạng sôi nổi của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế - xã hội. Hội nghị cũng đề ra một số biện pháp nhằm chấn chỉnh tổ chức Đảng ở các ngành, các đoàn thể. Theo đó Đảng đoàn Liên hiệp công đoàn tỉnh Tuyên Quang đã được kiện toàn gồm có 5 đồng chí, đồng chí Nguyễn Văn Khoa Thư ký Liên hiệp công đoàn được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ chỉ định làm Bí thư Đảng đoàn.

Căn cứ vào Nghị quyết của Tỉnh uỷ và Nghị quyết 23 của Tổng công đoàn Việt Nam, Liên hiệp công đoàn đề ra nhiệm vụ và những chỉ tiêu cụ thể của phong trào công nhân, viên chức hoạt động công đoàn trong 2 năm 1970 – 1971. Trọng tâm là vận động, tổ chức đội ngũ công nhân, viên chức phấn đấu hoàn thành kế hoạch kinh tế trước thời hạn, phải nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng cho đoàn viên công đoàn, tham gia tích cực vào việc xây dựng Đảng. Trước mắt là tuyên truyền công nhân, viên chức học tập làm theo di chúc của Bác Hồ, giới thiệu nhiều công nhân ưu tú xuất sắc vào Đảng lao đông Việt Nam.

Điểm nổi bật của phong trào thi đua công nhân, viên chức trong 2 năm 1970–1971 là phấn đấu thực hiện “3 nội dung của phong trào lao động sản xuất”. Năm 1971 công đoàn các cấp đã vận động gần 5500 cán bộ, công nhân, viên chức đóng góp 9 vạn ngày công cho sản xuất nông nghiệp, tăng cường khối liên minh công – nông, góp phần vào cuộc vận động định canh, định cư của tỉnh nhà. Năm 1970 Liên hiệp công đoàn tỉnh đã đề ra 3 nội dung vận động trong công nhân, viên chức, lao động là : Giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đoàn viên công đoàn; tổ chức kiện toàn công đoàn cơ sở, giới thiệu nhiều đoàn viên công đoàn xuất sắc vào Đảng .

Năm 1970 đội ngũ công nhân, viên chức toàn tỉnh có gần 25.000 người, số lượng đoàn viên công đoàn chiếm gần 89% tổng số công nhân, viên chức. Toàn tỉnh có 163 công đoàn cơ sở, gần 200 công đoàn bộ phận và khoảng 1800 tổ công đoàn. Số lượng cán bộ công đoàn chuyên trách và bán chuyên trách có nhiều thay đổi. Trong đó có 56 đồng chí cán bộ công đoàn chuyên trách là người dân tộc. Trong 2 năm 1969 – 1970, nhiều cán bộ công đoàn được nhận các danh hiệu thi đua của Tổng công đoàn Việt Nam và Liên hiệp công đoàn Khu tự trị Việt Bắc.

Năm 1970 với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế của Tuyên Quang đã thu được những thắng lợi quan trọng, nhiều chỉ tiêu thực hiện đúng tiến độ. Trên mặt trận nông nghiệp, diện tích gieo cấy đạt 102,1%, sản lượng lương thực đạt 101,1%; chăn nuôi đạt 99,34%, đàn lợn đạt 104,4%. Sản xuất công nghiệp có bước tăng trưởng khá như sản lượng công nghiệp tăng 17%, thủ công nghiệp tăng 29%… Các lĩnh vực giao thông, bưu điện, thương nghiệp, y tế – văn hoá– giáo dục đều vượt chỉ tiêu. Đây thực sự là một thành tích đang tự hào của Tuyên Quang. Trong đó có sự đóng góp quan trọng của gần 2,5 vạn công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn trong tỉnh.

Bước sang năm 1971, rút kinh nghiệm chỉ đạo các phong trào quần chúng, Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn đã hướng dẫn nội dung thi đua cho các cấp công đoàn là : Khắc phục tình trạng buông lỏng quản lý, củng cố kỷ luật lao động, nâng cao giờ công ngày công, xây dựng và thực hiện định mức kỹ thuật, năng suất lao động góp phần tạo đà cho tăng trưởng sản xuất công nghiệp, nông– lâm nghiệp của năm 1971.

Năm 1971 kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế của Tuyên Quang đã thu được một số thành tích quan trọng. Nhiều đơn vị đã hoàn thành kế hoạch năm 1971, sản lượng công nghiệp toàn tỉnh tăng hơn năm 1970 là 4%, các định mức khai thác gỗ, trồng rừng , chăn nuôi đầu đạt kế hoạch. Tuy nhiên sản xuất lương thực có bị giảm do ảnh hưởng của trận lũ lụt tháng 8/1971. Trận lũ lụt đã làm mất trắng 4000 ha lúa, hàng ngàn ngôi nhà bị sập, gần 3000 gia súc bị cuốn trôi, tổng thiệt hại lên tới 5.000.000đ[114].

Trước những khó khăn, thử thách công đoàn các cấp đã tích cực đi sâu sát quần chúng, góp phần khắc phục mọi tổn thất do lũ lụt gây ra. Qua đó ổn định đời sống của công nhân, viên chức ở các nông lâm trường, xí nghiệp đồng thời ủng hộ bà con nông dân ở các thôn bản. Qua thống kê, Liên hiệp công đoàn đã tổ chức quyên góp được gần 2 vạn đồng và nhiều quần áo, chăn màn ủng hộ bà con vùng bị bão lũ.

Năm 1971, Liên hiệp công đoàn tiếp tục cuộc vận động công nhân, viên chức và đoàn viên “Học tập nâng cao chất lượng Đảng viên, kết nạp Đảng viên lớp Hồ Chí Minh”, “Tăng cường chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa”. Với vai trò là tổ chức quần chúng tham gia xây dựng Đảng, công đoàn ở các nhà máy, xí nghiệp, nông – lâm trường đã tổ chức nhiều lớp học chính trị cho công nhân, viên chức. Trong 2 năm 1970 – 1971 công đoàn các cấp đã giới thiệu hơn 600 đoàn viên ưu tú để các cấp uỷ Đảng xem xét kết nạp. Đối với cuộc vận động tăng cường làm chủ tập thế, các cơ quan Quân, Dân, Chính, Đảng trong tỉnh tổ chức 5 đợt đưa cán bộ, viên chức về nông thôn, về vùng sâu, vùng xa để giúp dân sản xuất, củng cố, kiện toàn Hợp tác xã và Chính quyền cơ sở.

Đầu năm 1972 chuẩn bị tiến tới Đại hội công đoàn Liên hiệp Khu tự trị Việt Bắc và Đại hội lần thứ VI công đoàn tỉnh Tuyên Quang, Liên hiệp công đoàn đã tổ chức chỉ đạo Đại hội công đoàn các cấp trong tỉnh. Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn coi đây là một dịp để kiện toàn và tăng cường chất lượng hoạt động của công đoàn cơ sở, đẩy mạnh việc phát triển lực lượng đoàn viên, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Được sự chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, sự giúp đỡ của các cấp chính quyền, 2309 công đoàn cơ sỏ đã hoàn thành việc tổ chức Đại hội công đoàn. Qua đại hội công đoàn các cấp, đã tăng cường thêm 46% cán bộ công đoàn mới, thành lập 26 công đoàn bộ phận và công đoàn cấp trên cơ sở, phát hiện nhiều cán bộ công đoàn trẻ, cán bộ nữ và người dân tộc có khả năng làm việc lâu dài.

Thông qua Đại hội công đoàn các cấp, đã phát huy vai trò của tổ chức công đoàn, tinh thần làm chủ tập thể, tự lực cánh sinh vượt qua mọi khó khăn của công nhân, viên chức. Nội dung của Đại hội công đoàn cơ sở nhất là các đơn vị sản xuất, đều gắn với tình hình sản xuất, đời sống của nhà máy, xí nghiệp cơ quan. Việc xây dựng các chỉ tiêu định mức sản xuất, cũng như quan tâm đến đời sống của người lao động được giải quyết kịp thời. Việc này đáp ứng yêu cầu của Ban bí thư Trung ương Đảng đề ra là : “Từ Đại hội công đoàn các cấp tiến tới đại hội công đoàn Việt Nam lần thứ III phải là quá trình giáo dục, vận động công nhân, viên chức, nhận rõ vai trò của bản thân gắn liền với lợi ích của chủ nghĩa xã hội, của Tổ quốc. của xí nghiệp; phát huy tinh thần làm chủ tập thể, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và củng cố một bước tổ chức công đoàn”[115].

Đại hội đại biểu công đoàn Tuyên Quang lần thứ VI (vòng 1) đã được tiến hành từ ngày 23 đến ngày 25/3/1972, về dự Đại hội có 173 đại biểu đại diện cho hơn 2,5 vạn công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn. Đại hội đã thảo luận và bổ sung báo cáo kiểm điểm nhiệm kỳ vừa qua, phương hướng mục tiêu nhiệm kỳ tới của Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn khu tự trị Việt Bắc. Đại hội đã bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội công đoàn khu tự trị Việt Bắc lần thứ IV với 21 đại biểu.

Từ sau đại hội công đoàn tỉnh lần thứ VI (vòng 1), hoạt động công đoàn Tuyên Quang tập trung vào việc vận động công nhân, viên chức làm việc “Có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất, có hiệu quả kinh tế, phấn đấu hoàn thành kế hoạch năm 1972”. Công đoàn các cấp đã mở các hội nghị 3 điểm cao, hội nghị những người đạt giờ công và năng suất lao động cao. Ngoài ta còn tổ chức các đợt thao diễn kỹ thuật, thi tay nghề chọn thợ giỏi, tổ chức các đơn vị và cá nhân đăng ký thi đua hoàn thành kế hoạch Nhà nước .

Để góp phần cải thiện đời sống của công nhân, viên chức, lao động, Ban  Thường vụ Liên hiệp công đoàn đã chỉ đạo các cấp công đoàn tham gia với chuyên môn bố trị việc làm, sử dụng lao động hợp lý, đảm bảo tiền lương, thu nhập cho người lao động. Từ đầu năm 1972, theo hướng dẫn của Bộ lao động và Tổng công đoàn Việt Nam, Công đoàn đã phối hợp với chuyên môn mở rộng việc trả lương theo sản phẩm, theo hiệu quả sản xuất. Bước đầu nâng cao thu nhập, khuyến khích công nhân, viên chức tích cực làm việc có hiệu quả. Tuy nhiên, đời sống của công nhân, viên chức, lao động ở Tuyên Quang vẫn còn nhiều khó khăn, thu nhập thực tế có sụt giảm so với năm 1965, vấn đề nhà ở, Bảo hiểm xã hội, An toàn lao động chưa được cải thiện.

Giữa lúc công cuộc khôi phục, phát triển kinh tế của Tuyên Quang có nhiều chuyển biến thì đế quốc Mỹ lại điên cuồng phát động cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Quân và dân ta tiếp tục bước vào cuộc chiến đấu anh dũng chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ với quy mô khốc liệt gấp bội so với trước đây.

Tháng 4/1972, Ban chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc. Lời kêu gọi có đoạn “Mỗi công nhân phải là một chiến sĩ kiên cường, mỗi nông trường, xí nghiệp, nhà máy, hợp tác xã, trường học, đường phố phải là chiến hào sẵn sàng chiến đấu đập tan mọi hành động phiêu lưu quân sự của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai”. Tiếp đó Đoàn chủ tịch Tổng công đoàn Việt Nam đã có thông tư kêu gọi công nhân, viên chức, lao động Miền Bắc tích cực thi đua chống Mỹ cứu nước “Mỗi công nhân, viên chức là một chiến sĩ kiên cường chống Mỹ cứu nước”; “Mỗi xí nghiệp, nông trường, lâm trường, cơ quan … là một chiến hào sẵn sàng chiến đấu đập tan mọi hành động phiêu lưu quân sự của giặc Mỹ và tay sai”[116]

Tháng 6/1972, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Tuyên Quang đã họp và đề ra nhiệm vụ mục tiêu của quân dân Tuyên Quang trong thời gian tới là :

  • Về sản xuất phải vượt mọi khó khăn hoàn thành kế hoạch sản xuất, nhất là sản xuất lương thực, thực phẩm, phải củng cố công nghiệp và thủ công nghiệp, hệ thống giao thông vận tải, y tế - giáo dục, đời sống của nhân dân.
  • Thực hiện chế đội phòng không, sơ tán sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
  • Củng cố, tăng cường chính quyền các cấp, tiềm lực quân sự quốc phòng, phát triển lực lượng dân quân tự vệ, bảo vệ trật tự trị an, an ninh chính trị.
  • Tiếp tục góp phần chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam.

  Từ giữa tháng 5/1972 máy bay Mỹ đã nhiều lần thăm dò và đánh phá Tuyên Quang. Sang tháng 6/1972 cùng với việc tăng cường đánh phá miền Bắc, máy bay Mỹ đã đánh phá Tuyên Quang trên sông Lô, khu vực Thị xã, đường giao thông, các cầu cống, các nhà máy xí nghiệp. Từ tháng 7/1972 quân, dân Tuyên Quang bước vào những cuộc chiến đấu ác liệt chống máy bay Mỹ, kẻ thù đã tập trung hàng trăm lượt máy bay và nhiều loại bom đạn đánh phá các mục tiêu kinh tế, quân sự, giao thông vận tải, bệnh viện, trường học ở Tuyên Quang. Kẻ thù đã đánh phá nhiều điểm dân cư như xã Phú Lương, An Khê, Lương Vượng, Mỹ Bằng, Phú Lâm, Cấp Tiến, Hàm Yên, trường cấp II Yên Sơn… làm nhiều người chết và bị thương.

Bước vào cuộc chiến chống chiến tranh phá hoại lần thứ II của đế quốc Mỹ, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và công đoàn Tuyên Quang đã nêu cao quyết tâm: vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu, tổ chức tốt phòng không, sơ tán, bảo vệ tài sản của Nhà nước, xí nghiệp, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân. Liên hiệp công đoàn tỉnh đã chỉ đạo công đoàn các cấp trong thời gian ngắn, hoàn thành nhiệm vụ sơ tán những nơi địch bắn phá, bố trí lại sản xuất, khẩn trương củng cố hệ thống phòng tránh và chiến đấu chống máy bay địch. Thành lập các đơn vị công nhân, viên chức, lao động trẻ, khoẻ đa phần là thanh niên để duy trì sản xuất và phục vụ chiến đấu.

Để tăng cường lực lượng tự vệ chiến đấu, thường vụ Liên hiệp công đoàn đã phối hợp với Uỷ ban hành chính và các cấp chính quyền huấn luyện quân sự cho công nhân, viên chức, lao động. Kết quả là đến tháng 6/1972 đã bồi dưỡng kiến thức quân sự cho 73% cán bộ chính trị, 90% cán bộ cấp xã, 74% cán bộ tự vệ các nhà máy, xí nghiệp và 90% công nhân lao động trực tiếp. Trên cơ sở huấn luyện này, tỉnh đã thành lập một tiểu đoàn pháo cao xạ 37 Li và nhiều đơn vị cơ động chiến đấu ở khu vực thị xã và ở các mục tiêu quan trọng khác.

Vừa sản xuất, lại vừa sẵn sàng chiến đấu đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và đoàn viên công đoàn tỉnh ta đã góp phần hoàn thành nhiệm vụ kinh tế, chính trị quốc phòng. Sản xuất nông nghiệp năm 1972 đạt 85.305,8 tấn lương thực quy thóc, đàn trâu đạt 63741 con, đàn lợn đạt hơn 125.000 con và hàng chục vạn gia cầm, đã đóng góp nghĩa vụ lương thực vượt mức kế hoạch 29%. Tuy nhiên sản xuất công nghiệp do phải phòng không, sơ tán nên không đạt so với kế hoạch đề ra, nhưng vẫn tăng hơn năm 1971 là 9%, thủ công nghiệp tăng hơn 1,7 lần. Các hoạt động y tế, giáo dục, văn hoá xã hội có nhiều chuyển biến, đời sống của nhân dân ổn định, an ninh trật tự giữ vững. Năm 1972 Tuyên Quang tiếp tục hoàn thành nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, chỉ tiêu tuyển quân đã vượt 4,5% so với năm 1971. Trong số đó có hơn 1000 công nhân, viên chức, lao động và đoàn viên công đoàn (chủ yếu là thanh niên) đã gia nhập quân đội. Riêng đối với đội ngũ cán bộ công đoàn đã có nhiều đồng chí lên đường đánh Mỹ. Các đồng chí Dương Chi Lăng (Thường vụ Trưởng ban tuyên giáo), Lưu Văn Á (Trưởng ban tổ chức), Lê Đình Sắc (Thư ký công đoàn công nghiệp), Dương Đức Thính (Thư ký công đoàn lâm trường Sơn Dương), Nguyễn Văn Tới (cán bộ Ban tuyên giáo) đã lần lượt gia nhập quân đội đi chiến đấu ở nhiều nơi.

Cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc kéo dài hơn 10 tháng, riêng đối với Tuyên Quang kẻ thù đã tiến hành 444 lần với 600 máy bay và hàng ngàn tấn bom đạn đánh phá nhiều địa điểm trên đất Tuyên Quang, gây ra nhiều thiệt hại. Các đơn vị dân quân, tự vệ ở các nhà máy, xí nghiệp đã phối hợp với các lực lượng bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực đã chiến đấu trên 20 trận, góp phần bắn rơi 5 máy bay địch, bắt sống một giặc lái[117]. Hầu hết các nhà máy, xí nghiệp, nông – lâm trường đã thực hiện khẩu hiệu “Tay búa – tay súng”, “Vừa sản xuất vừa chiến đấu, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Được sự giúp đỡ của các đơn vị bộ đội địa phương, công đoàn các cấp đã tổ chức 312 công nhân, viên chức tham gia các tổ trực chiến, 70 tổ “Tay búa – tay súng” phối hợp với các đơn vị bộ đội phòng không đánh máy bay địch.

Tháng 12/1972 cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đã bị thất bại hoàn toàn. Với thắng lợi của trận “Điện Biên Phủ trên không”, quân và dân miền Bắc đã đánh bại âm mưu xâm lược của chính quyền Nic – Xơn, bắt buộc Mỹ phải kí kết hiệp định Pari lập lại hoà bình ở Việt Nam. Trong cuộc chiến đấu này, nhân dân các dân tộc Tuyên Quang đã bảo vệ vững chắc tỉnh nhà, đưa công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế có nhiều tiến bộ.

Trải qua gần một năm chống chiến tranh phá hoại, phong trào công nhân, viên chức và hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã góp phần quan trọng vào những thành tích chung của quân dân trong tỉnh. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, thử thách phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn vẫn đi đúng hướng, có nhiều tiến bộ. Kết thúc năm 1972, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động  Tuyên Quang có gần 2,6 vạn người, số lượng đoàn viên công đoàn chiếm hơn 90% tổng số công nhân, viên chức, lao động. Các cấp công đoàn vẫn giữ vững về tổ chức và mục tiêu hoạt động. Hoạt động công đoàn từ tỉnh xuống cơ sở tập trung vào việc động viên công nhân, viên chức, lao động phát huy truyền thống Cách mạng, vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu. Liên hiệp công đoàn đã tham gia với Uỷ ban hành chính tỉnh và các cấp Chính quyền, thực hiện kịp thời các chế độ tiền lương, phụ cấp, trợ cấp chiến tranh; tổ chức việc cung cấp lương thực, thực phẩm, khám - chữa bệnh, cứu thương cho công nhân, viên chức, lao động. Bên cạnh đó các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao vẫn duy trì và phát triển.

Năm 1972 phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã góp phần cùng với nhân dân các dân tộc trong tỉnh thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V“Đại hội chống Mỹ cứu nước và xây dựng kinh tế địa phương”. Với những thắng lợi đã đạt được, công nhân, viên chức, lao động và công đoàn Tuyên Quang bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội , góp phần hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc (1973-1975).

3. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang khôi phục và phát triển kinh tế (1973-1975):

Ngày 27/1/1973 Hiệp định Pari được ký kết, cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc hoàn toàn chấm dứt. Từ đây công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang bước vào thời kỳ khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế, xây dựng hậu phương vững mạnh, tăng cường chi viện cho tiền tuyến.

Nghị quyết 21,22 của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc trong hai năm 1974, 1975, nhiệm vụ trọng tâm là : nhanh chóng hoàn thành việc hàn gắn vết thương chiến tranh, ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa về mọi mặt, ổn định tình hình kinh tế với đời sống nhân dân củng cố quốc phòng, ra sức chi viện cho cuộc đấu tranh và xây dựng để giải phóng miền Nam.

Quán triệt nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Thường vụ tỉnh uỷ Tuyên Quang đã đề ra những chủ trương, biện pháp, mục tiêu xây dựng kinh tế tỉnh nhà sau ngày hoà bình lập lại. Đối với công nghiệp là đẩy mạnh việc xây dựng một số ngành mới, nhà máy – xí nghiệp mới như điện lực, vật liệu xây dựng, khai thác lâm - thổ sản, cơ khí, sản xuất hàng tiêu dùng và chế biến nông sản. Đối với lâm nghiệp phải tập trung quy hoạch trồng rừng, tạo vùng nguyên liệu. Tăng cường bảo vệ rừng, đưa nghề rừng thành một nghề kinh doanh chính trong nền kinh tế của tỉnh. Đối với sản xuất nông nghiệp là củng cố kiện toàn lại các Hợp tác xã nông nghiệp, nhanh chóng giải quyết vấn đề vướng mắc của Hợp tác xã. Tăng cường quan hệ sản xuất mới trong nông thôn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật cho nông nghiệp – nông thôn.

Do ảnh hưởng của chiến tranh phá hoại nên nhiều ngành sản xuất chưa ổn định, đời sống của công nhân, viên chức và nhân dân nói chung còn nhiều khó khăn. Hệ thống cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông vận tải, các trạm trại phục vụ sản xuất nông nghiệp bị tàn phá, xuống cấp. Một bộ phận cán bộ, công nhân, viên chức sức khỏe yếu, ốm đau bệnh tật, trình độ năng lực không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế.

Tháng 2/1973, Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã họp hội nghị bàn về phương hướng, nhiệm vụ phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn. Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ của phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn trong những năm tới là :

  • Tổ chức và vận động công nhân, viên chức, lao động thi đua lao động sản xuất đạt giờ công và hiệu quả.
  • Thực hiện định mức lao động, tiết kiệm vật tư, chống lãng phí.
  • Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật khắc phục khó khăn trong sản xuất công tác, phấn đấu hoàn thành kế hoạch Nhà nước.

Liên hiệp Công đoàn đã chỉ đạo công đoàn các cấp tổ chức nhiều đợt thi đua lao động sản xuất, tiết kiệm trong công nhân, viên chức. Qua đó nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, tích cực tham gia quản lý xí nghiệp, quản lý kinh tế, góp phần hoàn thành chỉ tiêu sản xuất và cải thiện đời sống công nhân, viên chức, lao động.

Trong phong trào thi đua, các cấp công đoàn tập trung vào việc bảo đảm giờ công, ngày công, thực hiện các định mức kinh tế kỹ thuật, làm đúng quy trình công nghệ, chế độ nghiệp vụ công tác. Khẩu hiệu “Lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất, có hiệu quả kinh tế, phấn đấu hoàn thành kế hoạch Nhà nước” đã được đông đảo công nhân, viên chức, lao động hưởng ứng. Hình thức và biện pháp tổ chức thi đua là : Đăng ký thi đua, tổ chức hội nghị 3 điểm cao, hội nghị điển hình tiên tiến, thao diễn kỹ thuật, thi tay nghề thợ giỏi. Nhiều nhà máy, xí nghiệp mở hội nghị chuyên đề bàn biện pháp khắc phục khó khăn nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu.

Nhìn chung 6 tháng đầu năm 1973 phong trào công nhân, viên chức và hoạt động công đoàn đã góp phần ổn định và khôi phục lại sản xuất các ngành kinh tế của Tuyên Quang. Sản xuất nông nghiệp đã giành được thắng lợi trong vụ Xuân – Hè 1973. Hệ thống giao thông vận tải, y tế, giáo dục đã hoạt động bình thường, xuất hiện nhiều đơn vị tiêu biểu như ngành cơ khí 6 tháng đầu năm đã cung cấp cho nông nghiệp hơn 2 vạn máy các loại, gần 300 máy bơm và máy tuốt lúa. Các nông trường sông Lô, Tân Trào, Tháng 10, Trần Phú…đã tạo nên những vùng chuyên canh cây công nghiệp.

Tháng 6/1973 Đại hội công đoàn tỉnh Tuyên Quang lần thứ VI (vòng 2) đã được khai mạc, về dự Đại hội có 200 đại biểu, thay mặt cho hơn 2,5 vạn công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn. Các đồng chí Đỗ Trọng Giang Uỷ viên Ban thư ký Tổng công đoàn Việt Nam, Trần Hoài Quang Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Tuyên Quang đã về dự và chỉ đạo Đại hội. Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn Tuyên Quang trong những nhăm 1974,1975. Đại hội đã bầu Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn và bầu đồng chí Nguyễn Hữu Chính làm Thư ký, đồng chí Lê Thị Duyên làm Phó thư ký Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang nhiệm kỳ mới.

Kết quả phong trào thi đua của công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn Tuyên Quang năm 1973 đã có hơn 17.000 công nhân, viên chức, lao động đăng ký tham gia phấn đấu giành các danh hiệu. Đến tháng 12/1973 hầu hết các ngành, các đơn vị sản xuất kinh doanh, các cơ quan hành chính sự nghiệp đều hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, công tác. Trong đó có 41 đơn vị hoàn thành kế hoạch trước thời hạn từ 5 đến 14 ngày, 55 đơn vị đạt ngày công cao từ 23 đến 26 công/tháng/người. Phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật đã có nhiều tiến bộ, toàn tỉnh đã có hơn 2400 sáng kiến làm lợi hàng chục triệu đồng[118]. Năm 1973 đội ngũ công nhân, viên chức, lao động Tuyên Quang đã có hơn 2,6 vạn người, trong đó có bộ phận được trưởng thành, rèn luyện từ sau năm 1965. Đặc biệt công nhân, viên chức, lao động là người dân tộc đã chiếm tỷ lệ khá đông, góp phần vào việc phát huy, giữ gìn khối Đại đoàn kết dân tộc.

Tháng 2/1974 Đại hội lần thứ III Công đoàn Việt Nam đã được tiến hành tại Hà Nội, Đại hội đã đánh giá những thành tích to lớn của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ cụ thể của công đoàn Việt Nam trong 2 năm 1974 – 1975 là: “Nhanh chóng hoàn thành việc hàn gắn vết thương chiến tranh, ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa, xã hội; củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa về mọi mặt, ổn định tình hình kinh tế và đời sống nhân dân, ra sức làm tròn nghĩa vụ đối với Miền Nam anh hùng”[119].

Nghị quyết Đại hội công đoàn Việt Nam lần thứ III đã định hướng cho phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn Tuyên Quang. Tháng 3/1974 Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã phát động phong trào thi đua trong công nhân, viên chức, lao động theo khẩu hiệu “Thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội”, theo 3 hướng lớn là:

  • Lao động sản xuất có năng suất chất lượng, có hiệu quả, thực hành tiết kiệm.
  • Các cấp công đoàn vận động công nhân, viên chức, lao động tham gia xây dựng nề nếp trong quản lý kinh tế, củng cố và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
  • Đấu tranh xoá bỏ tệ nạn xã hội và những hiện tượng tiêu cực trong xã hội[120].

Phong trào thi đua lao động sản xuất do công đoàn Tuyên Quang phát động đã lôi cuốn hơn 90% công nhân, viên chức, lao động tham gia, góp phần quan trọng hoàn thành kế hoạch kinh tế của tỉnh nhà. Theo thống kê 9 tháng đầu năm 1974, sản xuất của tỉnh đã tăng hơn 9 tháng đầu năm 1973 là 15%, trong đó sản xuất công nghiệp bằng 114,5%, thủ công nghiệp bằng 105,4%, sản xuất nông nghiệp bằng 112%. Đặc biệt sản xuất nông nghiệp đã có nhiều thành tích như: lương thực đạt gần 7,5 vạn tấn lương thực quy thóc, đàn trâu đạt 7 vạn con, đàn lợn gần 130.000 con, gia cầm hơn 80 vạn con. Đặc biệt cơ cấu kinh tế của tỉnh năm 1974 đã có nhiều thay đổi theo hướng chuyên canh, phát huy thế mạnh của tỉnh là ngành lâm nghiệp và chăn nuôi. Từ năm 1974 Tuyên Quang đã xúc tiến kế hoạch trồng 142.000 ha rừng để cung cấp nguyên vật liệu cho công nghiệp giấy sợi…cũng như đẩy mạnh chăn nuôi đại gia súc, trồng cây công nghiệp…[121].

Năm 1974 hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã có nhiều tiến bộ trong tổ chức phong trào thi đua, tuyên truyền, giáo dục, chăm lo và bảo vệ đời sống cho công nhân, viên chức, lao động. Các cấp công đoàn đã nhận thức rõ vị trí, vai trò và nhiệm vụ của mình trong việc tổ chức, vận động công nhân, viên chức, lao động hoàn thành kế hoạch Nhà nước, xây dựng tổ chức công đoàn và phát triển lực lượng đoàn viên. Hoạt động công đoàn năm 1974 đã có nhiều ưu điểm nổi bật là : Quán triệt đầy đủ nội dung, nghị quyết của Đảng của Tổng công đoàn và của Đảng bộ tỉnh; sự chỉ đạo của Liên hiệp công đoàn đối với công đoàn các cấp là đúng trọng tâm, tích cực, nhạy bén, kiên quyết thể hiện sự chủ động sáng tạo.

Năm 1974 là năm Tuyên Quang giành được nhiều thắng lợi trong công cuộc khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh. Những thắng lợi trong sản xuất công nghiệp, nông, lâm nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải … đã trở thành nhân tố đưa lực lượng công nhân, viên chức, lao động phát triển về mọi mặt. Cuối năm 1974 đội ngũ công nhân, viên chức, lao động Tuyên Quang có gần 2,65 vạn người, trong đó công nhân, viên chức các ngành công nghiệp, lâm nghiệp đã tăng hơn 16% so với năm 1973. Đây cũng là kết quả chủ trương đúng của Đảng, Nhà nước là đưa Tuyên Quang phát triển mạnh về lâm nghiệp, khai thác lâm thổ sản và các loại khoáng sản…Kết thúc năm 1974 tổ chức công đoàn Tuyên Quang có khoảng 2,5 vạn đoàn viên, đội ngũ cán bộ công đoàn đã được tăng cường một bước, trong đó cán bộ công đoàn chuyên trách là 172 đồng chí. Các đồng chí Nguyễn Hữu Chính là Thư ký và đồng chí Lê Duyên là Phó thư ký Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang đã có nhiều cống hiến cho phong trào công nhân và hoạt động công đoàn tỉnh nhà. Tháng 8/1974, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã kiện toàn Đảng đoàn Liên hiệp công đoàn và chỉ định đồng chí Nguyễn Hữu Chính làm Bí thư Đảng Đoàn.

Tháng 12/1974, Đại hội tỉnh Đảng bộ Tuyên Quang lần thứ VI đã đề ra nhiệm vụ của quân và dân tỉnh nhà là : khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, ra sức phát huy 3 thế mạnh của tỉnh, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi nghị quyết thứ 22 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, góp phần tích cực vào thắng lợi vĩ đại của công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Từ đó “Tạo tiền đề vật chất, tinh thần để Đảng bộ và nhân dân tỉnh ta tiến lên những bước nhanh, vững chắc và toàn diện hơn nữa trong thời gian tới”[122].

Đối với công tác lãnh đạo và vận động các tổ chức đoàn thể như công đoàn, thanh niên, phụ nữ…Đại hội thực hiện phương châm: “Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, quần chúng làm chủ tập thế”. Qua đó phát huy vai trò của đội ngũ công nhân, viên chức, cán bộ khoa học kỹ thuật và các cấp công đoàn, lực lượng trụ cột cho việc thực hiện các mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ tỉnh đã đề ra[123].

Quán triệt nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tuyên Quang lần thứ VI, Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn đã đề ra nhiệm vụ, mục tiêu của phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn. Nhiệm vụ trọng tâm là phải động viên, tổ chức đội ngũ công nhân, lao động thấy rõ vai trò, trách nhiệm hàng đầu của mình là thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của năm 1975 như :

  • Tuyên Quang phải tự túc lương thực, thực phẩm trong vòng từ 2 đến 3 năm, năm 1975 phải sản xuất được 100 – 105 ngàn tấn lương thực.
  • Sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp phải hơn năm 1974 là 7,3%
  • Trồng cây gây rừng năm 1975 đạt từ 8000 đến 10000ha
  • Đẩy mạnh chăn nuôi trâu, bò, lợn, gia cầm…

     Tháng 4/1975 Ban thường vụ Tỉnh uỷ đã họp với các cấp, các ngành, các đoàn thể phát động phong trào thi đua đẩy mạnh sản xuất, tiết kiệm, tiếp tục chi việc cho Cách mạng miền Nam. Đây thực sự là phong trào thi đua toàn diện rộng lớn, được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ chủ trì, Liên hiệp công đoàn được giao trách nhiệm là nòng cốt trong việc tổ chức, vận động công nhân, viên chức, lao động tham gia.

Phong trào thi đua đã được đa số quần chúng, nhân dân hưởng ứng. Ngay từ đầu năm đã có hơn 22000 công nhân, viên chức, lao động đăng ký thi đua vượt mức kế hoạch Nhà nước năm 1975. Ở các nhà máy, xí nghiệp, nông – lâm trường quốc doanh đã có 941 tổ đội đăng ký phấn đấu đạt danh hiệu xã hội chủ nghĩa, hàng ngàn công nhân, viên chức đăng ký phấn đấu đạt danh hiệu thi đua các cấp. Phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm vật tư cũng được đẩy mạnh.

Để làm tốt việc chỉ đạo phong trào thi đua của công nhân, viên chức, lao động Liên hiệp công đoàn đã thành lập Hội đồng thi đua có đại diện của Chính quyền và các đoàn thể. Đồng chí Nguyễn Hữu Chính được cử làm Chủ tịch Hội đồng thi đua. Hội đồng thi đua đã quán triệt các cấp công đoàn phải phối hợp với các cấp chính quyền, chuyên môn thực hiện các chỉ tiêu sản xuất, có hiệu quả thiết thực, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của công nhân, viên chức, lao động. Đi đầu là ngành lâm nghiệp, sản xuất vật liệu, nông trường Trần Phú, ngành giao thông vận tải, ngành bưu điện, thủ công nghiệp, cơ khí …

Ngày 30/4/1975 miền Nam hoàn toàn được giải phóng, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã kết thúc thắng lợi, Tổ quốc được độc lập và thống nhất từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau. Sự kiện lịch sử này càng thúc đẩy công nhân, viên chức, lao động và đồng bào các dân tộc Tuyên Quang quyết tâm hoàn thành kế hoạch Nhà nước, chào mừng ngày Tổ quốc hoà bình thống nhất, trọn vẹn non sông.

Từ sau tháng 5/1975, ở hầu hết các công trường, nhà máy, xí nghiệp, nông – lâm trường, cơ quan công nhân, viên chức, lao động đều tự nguyện làm thêm giờ, nhận thêm công việc, nhận thêm công trình…Các ngành giao thông vận tải, y tế - giao dục, thương nghiệp, lâm nghiệp đã có hơn 5000 công nhân, viên chức, lao động đăng ký hoàn thành công việc trước thời hạn.

Hoạt động công đoàn đã cố nhiều chuyển biến và đạt được nhiều thành tích nổi bật. Công tác thi đua, tài chính, tuyên truyền giáo dục, kiểm tra, nữ công, bảo vệ và chăm lo đời sống của công nhân, viên chức đã có nhiều tiến bộ. Các phong trào như “Tiết kiệm nguyên vật liệu”, “Ba đảm đang”, “Ba đỉnh cao vẫn tiếp tục được duy trì và phát triển, đã có hàng ngàn công nhân, viên chức hoàn thành kế hoạch trước thời hạn”.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn đã có nhiều chuyển biến theo nghị quyết 225 và chỉ thị 195 của Đảng. Liên hiệp công đoàn đã chú ý việc đào tạo, bồi dưỡng và phát hiện cán bộ từ cơ sở, từ công nhân lao động trực tiếp và cán bộ dân tộc. Trong năm 1975, Liên hiệp công đoàn đã tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cho hơn 4000 lượt cán bộ công đoàn các cấp. Ngoài ra còn đưa nhiều cán bộ trẻ, cán bộ nữ và cán bộ người dân tộc đi đào tạo lâu dài ở Trung ương và công đoàn khu tự trị Việt Bắc.

Năm 1975 là năm có nhiều sự kiện lịch sử đối với công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang. Đây là năm kết thúc kế hoạch khôi phục, phát triển kinh tế (1974 – 1975), năm thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI. Dưới sự lãnh đạo của tỉnh uỷ, phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà nước, chuẩn bị cơ sở để thực hiện kế hoạch 5 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (1976 – 1980).

                                              *                     *

                                                         *

Trải qua chặng đường lịch sử 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam (1954 – 1975) đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã giành được nhiều thắng lợi to lớn và trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt . Thắng lợi này gắn liền với sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, của Tổng công đoàn Việt Nam và sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ công nhân, viên chức ở một tỉnh giàu truyền thống Cách mạng, một tỉnh là cái nôi của Cách mạng Việt Nam .

Trong hơn hai thập kỷ vừa sản xuất, vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu đội ngũ công nhân, viên chức và tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã góp phần xây dựng, bảo vệ và phát triển tỉnh nhà về mọi mặt, đồng thời chi viện sức người sức của cho Cách mạng miền Nam, cho phong trào công nhân, công đoàn ở Miền Nam .

Cùng lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và công đoàn tỉnh ta luôn quán triệt sự chỉ đạo của Đảng . Đó là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Tất cả để xây dựng và bảo vệ Tuyên Quang” ngày càng vững mạnh, góp phần xây dựng hậu phương lớn miền Bắc làm chỗ dựa cho Cách mạng miền Nam. Vượt qua bao khó khăn, thử thách, vượt qua bom đạn và nhiều sự hy sinh, vượt qua thiếu thốn và thiên tai, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và 20 dân tộc anh em ở Tuyên Quang đã luôn đoàn kết, thống nhất, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện nghĩa vụ “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Đã có hàng ngàn công nhân, viên chức, đoàn viên và cán bộ công đoàn Tuyên Quang lên đường nhập ngũ, vào Nam công tác góp phần hoàn thành nghĩa vụ chi viện cho tiền tuyến lớn .

Trải qua 21 năm xây dựng, trưởng thành và thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược, phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã có được những bài học kinh nghiệm quý báu sau đây.

Một là : Quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, của Tổng công đoàn, vận dụng linh hoạt và phù hợp vào thực tiễn của Tuyên Quang nói chung và phong trào công nhân, hoạt động công đoàn tỉnh nhà mói riêng.

Hai là: Liên tục tổ chức và phát động các phong trào trong công nhân, viên chức, lao động và đoàn viên công đoàn ; qua đó phát huy sức mạnh trí tuệ, tính tự giác tự nguyện của quần chúng vào các phong trào Cách mạng.

Ba là: Giải quyết tốt các mối quan hệ giữa sản xuất ,sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu; giữa thực hiện kế hoạch của Nhà nước với việc chăm lo bảo vệ đời sống, giữa phát triển tổ chức công đoàn Tuyên Quang theo kịp với yêu cầu của phong trào Cách mạng.

Bốn là: Chú ý xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, luôn nâng cao vị trí, vai trò của tổ chức công đoàn trong xây dựng, phát triển kinh tế, trong xây dựng Đảng và chính quyền.

Năm là: Coi trọng việc tổng kết, nhân các điển hình và chỉ đạo thí điểm, kịp thời rút ta các ưu điểm, nhược điểm của hoạt động công đoàn, nhất là ở các cấp cơ sở.

Thực tiễn phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn Tuyên Quang trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội đã thể hiện tổ chức Công đoàn Tuyên Quang luôn giữ vững sự đoàn kết, nhất trí dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, của Tổng công đoàn Việt Nam, sự giúp đỡ của các cấp, các ngành và đoàn thể. Đây chính là nhân tố quan trọng, hàng đầu để phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn Tuyên Quang hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình, tiếp tục tiến vào thời kỳ mới của Cách mạng Việt Nam - thời kỳ cả nước thống nhất cùng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

 

 

Chương V : Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công cuộc đổi mới và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

                                    

I. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang (Hà Tuyên) trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (1976 - 1985).

1. Tình hình tổ chức Công đoàn Tuyên Quang (Hà Tuyên).

Thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân 1975 đã kết thúc 30 năm cuộc kháng chiến chống Mỹ, từ nay đất nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất, bước vào thời kỳ mới - Thời kỳ cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Đất nước chuyển sang giai đoạn cách mạng mới với nhiều thuận lợi cơ bản là: Đất nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quản lý và điều hành của Nhà nước xã hội chủ nghĩa; quyền làm chủ của nhân dân lao động được phát huy; nước ta có nguồn tài nguyên phong phú, nguồn lao động dồi dào; nhân dân ta có truyền thống đoàn kết, yêu nước, tự lực cánh sinh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong những năm đầu Đất nước độc lập, thống nhất, nhân dân lao động cả nước nói chung, giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn, hăng hái tham gia công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và ổn định sản xuất; tích cực tham gia các đợt sinh hoạt chính trị nhân các sự kiện trọng đại của đất nước. Ngày 25-4-1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội thành công rực rỡ. Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá VI đã xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới. Ngày 2-7-1976, Quốc hội khoá VI quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá III), ngày 6-6-1976. Hội nghị thống nhất công đoàn toàn quốc đã khai mạc trọng thể tại Hội trường Thống Nhất (thành phố Hồ Chí Minh), Thống nhất tổ chức Công đoàn cả nước lấy tên là Tổng Công đoàn Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi đưa phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn nước ta lên một bước.

Tháng 12-1976, Đại hội đại biểu lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976 - 1980); khẳng định vị trí, vai trò, nhiệm vụ của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam trong giai đoạn mới.

Cùng với những thuận lợi cơ bản nêu trên, đất nước ta đã và đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức là: Hậu quả của hơn 30 năm chiến tranh để lại hết sức nặng nề, chính sách bao vây, cấm vận của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động… Nền kinh tế sau chiến tranh phải chuyển hướng phát triển, nguyên vật liệu cho sản xuất công nghiệp, hàng hoá tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân bị thiếu hụt nghiêm trọng, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn. Trên tuyến biên giới Tây Nam và phía Bắc, các thế lực thù địch thực hiện chính sách chống phá, phá hoại, lấn chiếm gây mất ổn định, đe doạ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

Trước những khó khăn chung của cả nước, Đảng bộ và nhân dân Tuyên Quang đoàn kết, chung sức chung lòng cùng cả nước đẩy nhanh công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, đưa sản xuất đi vào ổn định, tạo bước phát triển mới. Đến cuối 1975, hầu hết các xí nghiệp, nhà máy, cơ quan hành chính sự nghiệp đã hoàn tất việc di chuyển cơ sở vật chất, kỹ thuật từ nơi sơ tán về, tăng thêm năng lực sản xuất phục vụ phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh. Nhiều cơ sở công nghiệp địa phương được mở rộng, xây dựng mới. Các lâm trường Sơn Dương, Hoa Đa, Chiêm Hoá, Tân Phong, Yên Sơn, Tuyên Bình, các nông trường tháng Mười, Hai sáu Tháng Ba, các xí nghiệp và công ty trong Tỉnh được mở rộng. Các công trình thuỷ lợi lớn và nhỏ được tu bổ, xây mới tăng khả năng đảm bảo nước cho sản xuất nông nghiệp gấp 3 lần so với 1974.

Đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức, lao động tỉnh Tuyên Quang có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ có trình độ đại học, trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật tăng lên. Đại bộ phận công nhân, viên chức là trẻ, khoẻ, được đào tạo qua các trường nghiệp vụ, trường dạy nghề, trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương. Hệ thống tổ chức công đoàn được củng cố, kiện toàn, từng bước nâng cao chất lượng hoạt động phong trào công nhân. Đến đầu năm 1976, Liên hiệp công đoàn Tỉnh có 11 công đoàn ngành, hàng trăm công đoàn cơ sở, kết nạp được 95% công nhân, viên chức vào tổ chức công đoàn. Đến trước thời điểm hợp nhất Liên hiệp công đoàn hai Tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, đội ngũ công nhân, viên chức và tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã được rèn luyện, thử thách trong chiến đấu và sản xuất, có nhiệt tình cách mạng, truyền thống lao động sáng tạo, là lực lượng nòng cốt góp phần to lớn vào phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh của Tỉnh nhà.

Ngày 27-12-1975, Quốc hội khoá V đã quyết nghị hợp nhất 2 tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang thành tỉnh mới lấy tên là tỉnh Hà-Tuyên. Việc hợp nhất hai tỉnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác tiềm năng, thế mạnh của mỗi vùng tổ chức lại sản xuất theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nhằm huy động mọi nguồn lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tháng 1-1976, Ban chấp hành Lâm thời Đảng bộ Hà Tuyên được Trung ương chỉ định gồm 39 đồng chí, trong đó 11 đồng chí được cử vào Ban Thường vụ Tỉnh uỷ. Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ Hà-Tuyên đã xác định: Phải nhanh chóng ổn định tổ chức bộ máy các ban Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng theo đơn vị hành chính mới. Hội nghị đã xác định phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch năm 1976 của tỉnh Hà Tuyên và sắp xếp, điều chỉnh, bổ sung kế hoạch tạo thành một cơ cấu kinh tế thống nhất, hợp lý; Từng bước phân bố lại lực lượng lao động xã hội, giải quyết những yêu cầu cấp bách về ăn, mặc ở, học tập, đi lại và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Tăng cường quản lý kinh tế, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở cả hai khu vực quốc doanh và tập thể.

Tháng 2-1976, Hội đồng nhân dân tỉnh Hà-Tuyên đã học phiên đầu tiên, Hội đồng nhân dân đã bầu ra Uỷ ban nhân dân Tỉnh, bộ máy lãnh đạo, các sở, ban, ngành được sắp xếp ổn định, chất lượng được nâng lên, trong đó có 44,93% cán bộ có trình độ trung, cao cấp chính trị; 40,2% có trình độ trung cấp chuyên nghiệp và Đại học các ngành kỹ thuật; 43% cán bộ dân tộc thiểu số. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ Hà Tuyên (tháng 6 - 1976) về cuộc vận động "Tổ chức lại sản xuất, cải tiến một bước quản lý nông - lâm nghiệp theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa", Uỷ ban nhân dân Tỉnh ra quyết định số 997-QĐ/SXNN và Hướng dẫn kế hoạch triển khai cuộc vận động nhằm củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở cả khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể.

Thực hiện Nghị quyết số 138 của Tổng Công đoàn Việt Nam về việc hợp nhất công đoàn hai tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang thành Liên hiệp công đoàn Hà Tuyên. Trong Quý 1-1976, công việc hợp nhất công đoàn ngành, công đoàn cơ sở, các Công ty, Xí nghiệp của 2 tỉnh được tiến hành theo đúng hướng dẫn của Thông tri thống nhất từ cấp cơ sở trở lên.

Được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ nhất trí từ ngày 15 đến ngày 16/4/1976, Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn hợp nhất hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang họp phiên thứ nhất. Hội nghị đã thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ công tác công đoàn Hà Tuyên năm 1976; công bố quyết định của Tổng Công đoàn Việt Nam công nhận Ban chấp hành lâm thời Liên hiệp công đoàn Hà Tuyên gồm 31 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Hữu Chính được bầu làm Thư ký và các đồng chí Nông Văn Bút và Lê Thị Duyên làm Phó Thư ký Liên hiệp công đoàn Hà–Tuyên. Tháng 6-1976; Hội nghị cán bộ công đoàn tỉnh Hà Tuyên lần thứ nhất được tổ chức tại thị xã Hà Giang, 200 đại biểu cán bộ các công đoàn cơ sở về dự. Hội nghị thảo luận và nhất trí cao báo cáo nhiệm vụ công tác công đoàn, tỉnh Hà Tuyên năm 1976 và trong kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976 - 1980). Trong tình hình mới, đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức tỉnh Hà Tuyên luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp của giai cấp công nhân và công đoàn, quyết tâm hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ Hà Tuyên và Tổng Công đoàn Việt Nam, công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho công nhân viên chức được các cấp công đoàn trong tỉnh quan tâm. Các đợt tuyên truyền, giáo dục rộng rãi trong công nhân, viên chức về nhiệm vụ mới được triển khai ở hầu hết các cấp công đoàn. Các đợt tổ chức học tập, phổ biến Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Ban chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam đã thu hút gần 90% công nhân, viên chức tham gia. Năm 1977, công đoàn cơ sở đã triển khai quán triệt tới cán bộ, công nhân, viên chức, Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Hà Tuyên lần thứ nhất, các nghị quyết của Ban chấp hành Tổng Công đoàn, các Nghị quyết và chỉ thị của Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn tỉnh, nhất là chỉ đạo tiến hành Đại hội Công đoàn cơ sở góp phần quan trọng đưa công tác giáo dục tư tưởng cho công nhân, viên chức đi vào nề nếp.

Để góp phần thực hiện các chỉ tiêu kinh tế, xã hội của tỉnh, Liên hiệp Công đoàn Hà Tuyên đã phát động nhiều phong trào hành động cách mạng trong công nhân, viên chức. Trong 2 năm (1986 – 1987), nhiều cơ sở có từ 95 - 100% tập thể và cá nhân đăng ký phấn đấu đạt danh hiệu"3 điểm cao", đơn vị "sản xuất giỏi".... Trong các đợt thi đua chào mừng Đại hội Đảng bộ Hà Tuyên lần thứ nhất, chào mừng Đại hội Đảng lần thứ IV... đã có nhiều công trình mang tên Đại hội. Ngành giáo dục tỉnh phát động phong trào thi đua "dạy tốt học tốt", động viên trên 500 giáo viên tăng cường cho các huyện vùng cao xoá mù chữ. Các phong trào thi đua "Thầy thuốc như mẹ hiền" của ngành y tế, "3 cải tiến" của các cơ quan hành chính sự nghiệp đã thu hút đông đảo công nhân, viên chức tham gia. Phong trào phát huy sáng kiến, cải tiên kỹ thuật, phấn đấu trở thành tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa tiếp tục được giữ vững, phấn đấu khắc phục khó khăn, tiết kiệm vật tư, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.

        Đại hội lần thứ nhất Công đoàn Hà Tuyên được tổ chức từ ngày 19 đến 23 tháng 7 năm 1977 tại Hội trường Tỉnh uỷ, Thị xã Hà Giang. Về dự Đại hội có 260 đại biểu đại diện hơn 52000 công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn trong tỉnh. Đại hội đánh giá cao vai trò đội ngũ công nhân, viên chức và tổ chức công đoàn trong phát huy truyền thống cách mạng, vượt qua khó khăn, giành nhiều thắng lợi trên mặt trận sản xuất, cùng quân và dân Hà Tuyên nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, bước đầu ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ của phong trào công nhân và hoạt động công đoàn trong thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ 2. Đại hội đã bầu 33 đồng chí vào Ban chấp hành Liên hiệp Công đoàn khoá I. Đồng chí Nguyễn Hữu Chính được bầu làm Thư ký; đồng chí Nông Văn Bút được bầu làm Phó Thư ký. Ban Thường vụ Liên hiệp Công đoàn Tỉnh gồm 9 đồng chí. Đại hội lần thứ I Liên hiệp công đoàn Hà Tuyên thành công đã tạo bước phát triển mới trong phong trào công nhân, viên chức và hoạt động công đoàn góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà nước năm 1977.

Từ sau ngày hợp nhất, tổ chức Công đoàn Hà Tuyên không ngừng được củng cố, kiện toàn. Đến cuối năm 1977, toàn tỉnh có 7 công đoàn ngành, 3754 tổ công đoàn với 46.273 đoàn viên chiếm 88% tổng số công nhân, viên chức. Sau Đại hội công đoàn cơ sở, nhiều tổ chức công đoàn hoạt động đi vào nề nếp, chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động. Công tác quy hoạch cán bộ công đoàn 5 năm (1976 - 1980) đã được công đoàn xây dựng, từng bước thực hiện công tác bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ. Liên hiệp công đoàn tỉnh đã thực hiện đạt 84% chỉ tiêu biên chế đã được Tổng Công đoàn Việt Nam phê duyệt, điều chuyển cho Đảng và Nhà nước 14 đồng chí, bổ sung cán bộ cho công đoàn các tỉnh phía Nam là13 đồng chí, tiếp nhận 39 đồng chí các nơi khác về. Thực hiện chủ trương của Tổng Công đoàn Việt Nam về thành lập công đoàn huyện, thị xã, năm 1978, Liên hiệp công đoàn tỉnh thành lập thí điểm công đoàn huyện Sơn Dương. Đến cuối năm 1979, thành lập công đoàn ở 12 huyện, thị, đến đầu năm 1980, hai công đoàn cấp huyện cuối cùng của tỉnh được thành lập. Việc công đoàn cấp huyện, thị xã được thành lập đã góp phần xây dựng hệ thống tổ chức công đoàn ngày càng hoàn chỉnh, đồng bộ.

Liên hiệp công đoàn tỉnh thường xuyên coi trọng công tác củng cố công đoàn cơ sở vững mạnh, nhấn mạnh vị trí, vai trò của tổ công đoàn. Từ cuối năm 1976, Liên hiệp công đoàn tỉnh đã chỉ đạo sát sao công đoàn các cấp tiến hành Đại hội nhằm đánh giá đúng hoạt động của công đoàn; xác định phương hướng, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn nhiệm kỳ tới. Đại hội Công đoàn các cấp luôn coi trọng dân chủ, công khai đảm bảo đúng nguyên tắc và điều lệ của tổ chức Công đoàn Việt Nam. Nhiều công đoàn cơ sở sở đã xây dựng được các ban quần chúng, phân công đoàn viên tham gia vào hoạt động giám sát của công đoàn. Qua tổng kết ở 165 cơ sở cho thấy hoạt động của các ban, tiểu ban, mạng lưới hoạt động quần chúng ở cơ sở tuy có được mở rộng hơn trước về hình thức, song hiệu quả còn hạn chế. Năm 1980, Liên hiệp công đoàn Tỉnh tổ chức thực hiện Thông tri 22 của Ban Thư ký Tổng Công đoàn Việt Nam về tổng kết công tác xây dựng công đoàn cơ sở. Theo báo cáo tổng kết của 80% cơ sở, công đoàn cơ sở đạt khá chiếm 49,6% (so với năm 1977 vượt 23,5%); tổ công đoàn đạt trung bình chiếm 42% (giảm 20% so với năm 1977)142. Qua tổng kết cho thấy số tổ công đoàn đạt trung bình và yếu còn cao, do vậy hoạt động của công đoàn cơ sở còn nhiều hạn chế.

Công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ công đoàn các cấp cũng có bước phát triển. Trong 3 năm (1976 – 1978), Liên hiệp Công đoàn Tỉnh kết hợp với Trường Cao cấp Công đoàn Việt Nam mở 3 lớp trung, sơ cấp quản lý xí nghiệp, sơ cấp lý luận công đoàn cho 113 đồng chí, các ban chuyên đề của Liên hiệp công đoàn còn mở nhiều đợt tập huấn cho 1926 cán bộ công đoàn ngành, công đoàn cơ sở. Năm 1979, Tổng Công đoàn Việt Nam quyết định cho Liên hiệp công đoàn Tỉnh mở rộng Trường Công đoàn trên cơ sở trường Công đoàn thuộc Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang. Việc này giúp Liên hiệp Công đoàn sẽ chủ động thực hiện kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng cho cán bộ công đoàn các cấp.

        Trong 5 năm (1976 – 1980), đội ngũ cán bộ công đoàn các cấp đã trưởng thành nhanh chóng, năng lực công tác được nâng lên, có phẩm chất tốt, có nhiệt tình và tận tuỵ với công việc, có trình độ văn hoá, có quan hệ tốt với quần chúng. Công đoàn cơ sở, công đoàn huyện (thị) và công đoàn ngành thường xuyên được bổ sung cán bộ, điều chỉnh, bố trí cán bộ hợp lý đảm bảo đoàn kết, kế thừa và tính liên tục trong công tác tổ chức cán bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, sắp xếp, điều động, đề bạt cán bộ công đoàn đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn bộc lộ những mặt hạn chế: Công đoàn cơ sở, tổ công đoàn hoạt động chưa đều, tỷ lệ loại trung bình và yếu còn khá cao. Đội ngũ cán bộ chuyên trách còn hạn chế về năng lực, trình độ khoa học - kỹ thuật. Công tác nghiên cứu, tổng kết, xây dựng mô hình điển hình tiên tiến chưa làm thường xuyên; công tác thi đua khen thưởng còn chậm, công tác tuyên truyền giáo dục còn nhiều hạn chế.

2. Công nhân, công đoàn Tuyên Quang (Hà Tuyên) trong thực hiện kế hoach 5 năm lần thứ II (1976 – 1980):

Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ II, đây là giai đoạn đất nước có rất nhiều khó khăn và thuận lợi. Do vậy, Công đoàn Tuyên Quang đứng trước hàng loạt vấn đề cần phải giải quyết, để góp phần vào việc hoàn thành hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với tinh thần đó, Liên hiệp công đoàn tỉnh đã xác định rõ: vấn đề có ý nghĩa quyết định tới việc thực hiện tốt chức năng của mình là phát triển cả chất lượng và số lượng đội ngũ công nhân, viên chức theo tinh thần chuyển hướng hoạt động của công đoàn nhằm đáp ứng những đòi hỏi mới của cách mạng.

Thuận lợi cơ bản trong việc thực hiện nhiệm vụ này là công đoàn đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng định hướng: “Công đoàn phải giáo dục ý thức xã hội chủ nghĩa cho công nhân, bồi dưỡng thái độ lao động mới, lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất cao, lao động thật thà rèn luyện tinh thần khắc phục khó khăn. Công đoàn phải tổ chức tốt phong trào thi đua cần kiệm xây dựng CNXH phối hợp với thủ trưởng chính quyền lãnh đạo phong trào thi đua. Công đoàn phải góp phần đắc lực cùng cơ quan Nhà nước giải quyết những vấn đề thiết thực về đời sống, phúc lợi tập thể, về điều kiện lao động, học tập, nghỉ ngơi của công nhân, viên chức, đặc biệt chú ý làm tốt việc bảo hộ lao động”143.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV, tổ chức công đoàn Hà Tuyên và đội ngũ công nhân, viên chức, lao động tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, đẩy mạnh sản xuất, xây dựng tổ chức công đoàn của mình vượt qua thử thách, đáp ứng tình hình nhiệm vụ mới.

Năm 1976, kinh tế Hà-Tuyên có bước phát triển, toàn tỉnh đã có thêm 63 cơ sở công nghiệp địa phương được xây dựng, mở rộng và đi vào sản xuất. Các nông trường, lâm trường ở Chiêm Hoá, Sơn Dương, Na Hang, Quản Bạ được củng cố và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều xí nghiệp cơ khí, nhà máy thuỷ điện nhỏ được thiết kế, xây dựng.

Năm 1976 toàn tỉnh đã có mạng lưới cơ khí nhỏ gồm hàng trăm máy phát lực, 404 máy công tác, 46 máy kéo lớn, 143 trạm bơm (chưa kể các nông trường quốc doanh). Tuy lực lượng công nhân, viên chức chỉ chiếm 1/13 dân số toàn tỉnh nhưng đã đóng góp 2/3 cho ngân sách địa phương.

 Song song với sự phát triển của công nghiệp, các ngành kinh tế, các đơn vị sự nghiệp, đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức ở thời kỳ này cũng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Năm 1976 mới có 46.948 công nhân, viên chức, năm 1980 tăng lên 61.000 người. Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật là kỹ sư và cán bộ có trình độ đại học tính đến năm 1977 có trên 1.000 người, 3.000 người có trình độ kỹ thuật nghiệp vụ trung cấp, 5.000 công nhân kỹ thuật, đại bộ phận là công nhân trẻ, khoẻ, có trình độ học vấn khá, được đào tạo qua các trường nghiệp vụ, trường dạy nghề. Số cán bộ khoa học kỹ thuật tăng lên nhanh phần đông phát huy được tác dụng. Một số công nhân được rèn luyện thử thách qua chiến đấu, trong sản xuất, được Đảng, chính quyền, công đoàn các cấp tổ chức giáo dục nên từ công nhân trực tiếp sản xuất đến cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ nghiệp vụ, phát huy được truyền thống lao động sáng tạo, dũng cảm, kiên cường trong các cuộc kháng chiến trước đây góp phần vào sự nghiệp xây dựng CNXH và phát triển nông - lâm - công nghiệp của tỉnh, làm cho Tuyên Quang trở thành hậu phương trực tiếp của các huyện biên giới Tỉnh Hà – Tuyên.

Bước vào kế hoạch 5 năm (1976 – 1980), đội ngũ công nhân, viên chức, lao động, tổ chức công đoàn không ngừng phát triển và củng cố. Nhiều công đoàn cơ sở được thành lập, nâng số đoàn viên tăng lên qua từng năm. Năm 1977 toàn tỉnh đã có 45.000 đoàn viên chiếm 85,7% trong tổng số công nhân, viên chức. Số công đoàn cơ sở mới được thành lập thêm từ năm 1976 đến 1980 là 39 cơ sở, số đoàn viên mới được kết nạp là 6.522 người. Tính đến tháng 12 năm 1980 số đoàn viên công đoàn đã tăng lên 51.522 người, chiếm tỷ lệ 84% tổng số công nhân viên chức.

Tính đến năm 1980, hệ thống tổ chức công đoàn tỉnh bao gồm 15 công đoàn huyện, thị và 9 công đoàn ngành nghề. Sự hình thành công đoàn cấp huyện, thị đã góp phần làm cho hệ thống tổ chức công đoàn ngày càng đồng bộ và hoàn chỉnh.

Nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của các cấp công đoàn là củng cố công đoàn cơ sở, nhất là hoạt động của tổ công đoàn nhằm mở rộng hoạt động và động viên quần chúng tham gia các phong trào cách mạng. Liên hiệp Công đoàn đã chỉ đạo công đoàn các cấp tiến hành Đại hội để kiểm điểm đánh giá hoạt động của tổ chức mình và đề ra phương hướng nhiệm vụ trong nhiệm kỳ tiếp theo. Việc hướng dẫn và chỉ đạo Đại hội công đoàn cơ sở ngày càng được chặt chẽ, đi sâu vào những nội dung chủ yếu ở từng đơn vị trong từng thời kỳ. Đó cũng là quá trình công đoàn cơ sở tiến hành Đại hội dân chủ, công khai bảo đảm đúng nguyên tắc và điều lệ của công đoàn.

Cùng với việc củng cố và xây dựng công đoàn cơ sở, là thành lập và mở rộng hoạt động của các ban quần chúng, được coi là vấn đề cơ bản của công đoàn trong quá trình xây dựng và củng cố tổ chức. Nhiều công đoàn cơ sở đã xây dựng được các ban quần chúng, phân công đoàn viên tham gia các mặt hoạt động. Tuy nhiên, cũng còn một số công đoàn cơ sở chưa xây dựng được các ban quần chúng, các màng lưới hoặc có tổ chức được các ban quần chúng nhưng việc hướng dẫn và bồi dưỡng cách làm chưa chu đáo nên hiệu quả của các hoạt động thấp. Qua tổng kết ở 165 cơ sở cho thấy: Về hoạt động của các ban, tiểu ban và màng lưới hoạt động quần chúng ở cơ sở tuy có được mở rộng hơn về hình thức tổ chức, song hiệu quả hoạt động chưa cao.

Thực hiện Thông tri 22 của Ban Thư ký Tổng Công đoàn Việt Nam, Liên hiệp Công đoàn đã triển khai tổng kết công tác xây dựng công đoàn cơ sở năm 1980. Kết quả 80% cơ sở đã tiến hành tổng kết, kết quả công đoàn cơ sở đạt loại khá chiếm 49,6% (so với năm 1977 vượt 23,5%), tổ công đoàn trung bình 42% (so với năm 1977 giảm 20%), tổ công đoàn kém 15% (so với năm 1977 giảm 7%). Qua đợt kiểm tra này số công đoàn cơ sở và tổ công đoàn hoạt động khá tănglên, số tổ hoạt động yếu kém giảm so với năm 1977.

Để nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức công đoàn, năm 1976 Trường Công đoàn tỉnh kết hợp với Trường cao cấp Công đoàn Việt Nam và các trường khác đã mở lớp trung cấp quản lý xí nghiệp Hà Tuyên cho hơn 70 cán bộ công đoàn và xí nghiệp. Năm 1977- 1978 mở tiếp lớp thứ 2, thứ 3 cùng với lớp Sơ cấp lý luận công đoàn được 113 học viên. Song song với việc đào tạo tập trung, Trường Công đoàn còn tổ chức các lớp ngắn ngày bồi dướng cho 414 cán bộ. Các ban chuyên đề mở các đợt tập huấn cho 1.512 cán bộ về công tác đời sống, tuyên giáo, nữ công, tài chính, kiểm tra và bảo hiểm xã hội.

Nhằm thường xuyên đáp ứng yêu cầu công tác đào tạo cán bộ, năm 1979 Tổng Công đoàn Việt Nam quyết định đầu tư vật chất, nhân lực cho Liên hiệp Công đoàn tỉnh mở rộng Trường Công đoàn. Từ đây, Trường Công đoàn tỉnh đã có điều kiện hơn để mở các lớp dài hạn tập trung, chấm dứt tình trạng bị động. Bộ máy quản lý và số cán bộ giáo viên cho nhà trường được bổ sung, tăng cường. Đồng thời với việc mở lớp đào tạo cán bộ tại địa phương, công đoàn tỉnh còn gửi đi đào tạo ở Trung ương được 37 đồng chí, 3 đồng chí đã học xong chương trình lý luận Mác - Lênin cao cấp.

Trong 2 năm (1976 và 1977), Liên hiệp Công đoàn đã cung cấp cho công đoàn các tỉnh miền Nam, nhất là tỉnh kết nghĩa 11 đồng chí, cho cấp trên và cơ sở 8 đồng chí. Trong 3 năm từ 1978 đến 1980, công đoàn tiếp nhận ở các cơ quan khác chuyển về hệ thống công đoàn 75 đồng chí là cán bộ được rèn luyện và trưởng thành từ phong trào công nhân. Trong đó có 15 đồng chí giữ trách nhiệm Thư ký công đoàn các huyện, thị, nâng số cán bộ chuyên trách từ 236 người tăng lên 308 người. Số cán bộ được đào tạo qua các trường Trung ương 36, địa phương 20, qua trường lý luận chính trị ở Trung ương và địa phương 61 người.

Nhìn chung đội ngũ cán bộ công đoàn đã trưởng thành nhanh chóng, năng lực được nâng lên, đa số có phẩm chất tốt, nhiệt tình, tận tuỵ công tác, có trình độ năng lực có quan hệ tốt với quần chúng, quyết tâm rèn luyện, có nghị lực vươn lên đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Số cán bộ trẻ có sức khoẻ, có trình độ năng lực ngày càng được bổ xung, góp phần vào việc đổi mới đội ngũ cán bộ, đảm bảo tính kế thừa và tính liên tục của các cấp công đoàn tỉnh.

Việc củng cố công đoàn cơ sở được tiến hành đồng thời với quá trình đẩy mạnh các hoạt động của công đoàn huyện, thị và ngành. Đối với công đoàn ngành được kiện toàn, hướng công đoàn ngày càng đi sâu vào khoa học, kỹ thuật, vào ngành nghề. Các ban của cơ quan, các đơn vị trực thuộc được điều chỉnh, bố trí cán bộ hợp lý, đảm bảo đoàn kết và hoạt động liên tục, trọng tâm đi vào nghiên cứu, hướng dẫn cơ sở vận dụng các Nghị quyết của Tỉnh uỷ, Tổng Công đoàn vào phong trào công nhân, viên chức và hoạt động công đoàn địa phương kịp thời, công tác chỉ đạo của Liên hiệp công đoàn có mục tiêu cụ thể, coi trọng phong trào thi đua phục vụ nông nghiệp. Công tác xây dựng, củng cố tổ chức công đoàn có nhiều tiến bộ, nhất là việc quy hoạch, sắp xếp, điều động, đề bạt cán bộ đã đáp ứng được phần lớn yêu cầu tình hình và nhiệm vụ mới.

Bên cạnh những ưu điểm, đội ngũ cán bộ chuyên trách vẫn còn hạn chế về năng lực, về khoa học - kỹ thuật, chuyên sâu ngành nghề, làm việc còn sự vụ, ít hiệu quả. Công tác nghiên cứu, tổng kết rút kinh nghiệm làm chưa được nhiều.

    Phong trào thi đua lao động sản xuất góp phần hoàn thành kế hoạch Nhà nước được các cấp công đoàn coi trọng. Trước hết là phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong công nhân, viên chức. Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn Tỉnh đã chỉ đạo các cấp công đoàn triển khai dưới nhiều hình thức như: mở hội nghị tuyên dương, hội thảo, toạ đàm, thao diễn kỹ thuật, triển lãm sáng kiến để tập hợp và cổ vũ quần chúng tham gia. Công đoàn phối hợp với chuyên môn trích hàng trăm nghìn đồng để làm phần thưởng cho những cá nhân có nhiều sáng kiến, đề nghị Tổng Công đoàn Việt Nam cấp bằng Lao động sáng tạo cho những sáng kiến có giá trị cao. Hưởng ứng phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật công nhân, viên chức, lao động các nhà máy xí nghiệp thực hiện khẩu hiệu “mỗi công nhân có một sáng kiến”, “mỗi cán bộ khoa học kỹ thuật có một đề tài”. Hội nghị tổng kết sáng kiến toàn tỉnh hai năm (1976 – 1977) đã đánh giá cao khả năng sáng tạo to lớn của công nhân, viên chức. Theo thống kê năm 1976 - 1977 công nhân, viên chức đã phát huy được 2.050 sáng kiến về hợp lý hoá sản xuất, cải tiến kỹ thuật làm lợi 891.000đ. Công đoàn Chiêm Hoá, công đoàn trường sư phạm 10+2 Hà-Tuyên, công đoàn ngành xây dựng, thuỷ lợi, lâm nghiệp, giáo dục, y tế đã có nhiều sáng kiến, đã có 11 cơ sở, 42 tổ và 71 cá nhân được Liên hiệp Công đoàn tỉnh tặng bằng khen và quà lưu niệm… Từ năm 1978 đến 1980 công nhân, viên chức đã phát huy được 1.900 sáng kiến, cải tiến kỹ thuật làm lợi cho Nhà nước 4.600.000đ, đã xuất hiện những đơn vị và cá nhân tiêu biểu như nhà máy giấy, công ty xi măng, công ty thuỷ lợi Bắc, các cá nhân như kỹ sư Nguyễn Hồng ở lâm trường Tuyên Bình, Mai Hữu Đắc lâm trường Chiêm Hoá…

Với khẩu hiệu“Tiết kiệm là quốc sách”, tổ chức công đoàn đóng vai trò nòng cốt trong việc thực hiện chủ trương của Đảng bộ. Một phong trào thi đua tiết kiệm đã được phát động trong công nhân, viên chức. Khẩu hiệu “tiết kiệm toàn diện, tiết kiệm triệt để” đã trở thành hành động hàng ngày của đông đảo công nhân, viên chức. Theo thống kê chưa đầy đủ, từ năm 1976 - 1980 các cơ sở trong tỉnh đã tiết kiệm được 1.090.884đ, điển hình như việc phục hồi lại máy điện cũ của Công ty chè, sửa chữa máy công cụ ở nhà máy cơ khí.

 Phong trào thi đua phấn đấu trở thành tổ, đội lao động XHCN và chiến sỹ thi đua được các cấp công đoàn phối hợp chặt chẽ với chuyên môn, vận động đông đảo các cơ sở và đoàn viên tham gia. Các cấp công đoàn có nhiều việc làm thiết thực để củng cố, phát triển phong trào. Hàng năm công đoàn tổ chức bình bầu, xét duyệt và trao thưởng cho những đơn vị, cá nhân đạt danh hiệu tổ, đội lao động XHCN và chiến sỹ thi đua các cấp. Số lượng tổ, đội lao động XHCN hàng năm đều tăng lên. Năm 1976 có 262 tổ được công nhận, năm 1977 tăng 12%, năm 1978 có 304 tổ, năm 1979 tăng 11%, năm 1980 có 333 tổ và 829 người được công nhận là chiến sỹ thi đua, trong đó 12 tổ giữ vững danh hiệu liên tục 10 năm. Trong phong trào thi đua phấn đấu trở thành tổ, đội lao động XHCN đã đào, luyện nên nhiều chiến sỹ thi đua tài năng, có thành tích xuất sắc, có lập trường cách mạng vững vàng. Từ đây, phong trào đảm bảo ngày, giờ công có ích đã trở thành phổ biến trong các cơ quan, xí nghiệp, các hiện tượng đi muộn, về sớm, nghỉ tự do được hạn chế ... việc làm thêm giờ, thêm ca, ngày chủ nhật đã trở thành phong trào thi đua sôi nổi ở các cơ quan đơn vị. Ngành lâm nghiệp năm 1976 có 27.000 công làm ngoài giờ và đã khai thác được hàng nghìn  m3 gỗ, hàng vạn cây tre; ngành công nghiệp có 3.980 công làm ngoài giờ, nhận thêm hàng chục công trình. Phong trào thi đua nâng cao ngày, giờ công có ích đã được đông đảo công nhân, viên chức, lao động tham gia. Hiện tượng nghỉ tự do ở các ngành và các cơ sở sản xuất đã giảm từ 30 - 60%, như ngành xây dựng từ 20.500 ngày công nghỉ tự do năm 1975 xuống còn 12.000 ngày năm 1976...

Phong trào cách mạng của quần chúng CNVC đã phát triển có nền nếp mà công đoàn các cấp tổ chức, động viên có hiệu quả, góp phần tích cực vào việc khắc phục những khó khăn, phục vụ sản xuất, chiến đấu và đời sống, thực hiện các nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước. Tuy nhiên, phong trào cũng đã bộc lộ những hạn chế như: chưa liên tục, sôi nổi, đều khắp; việc động viên, tuyên truyền, phổ biến áp dụng sáng kiến kịp thời. Hội đồng, tiểu ban, tổ, nhóm hỗ trợ sáng kiến về cải tiến quản lý, cải tiến nghiệp vụ còn ít. Nhìn chung phong trào vẫn đòi hỏi phải không ngừng đổi mới và nâng cao chức năng của công đoàn trong phong trào CNVCLĐ.

Cùng với phong trào  thi đua phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật trong công nhân, viên chức Liên hiệp công đoàn tỉnh còn tổ chức động viên phong trào thi đua phục vụ nông nghiệp, góp phần đưa nông nghiệp của tỉnh phát triển vững chắc, đáp ứng nhu cầu về lương thực, thực phẩm và xuất khẩu. Thời gian từ 1976 đến 1980, công đoàn các cấp đã tổ chức động viên công nhân, viên chức tích cực thi đua tham gia phục vụ nông nghiệp. Phong trào thi đua phục vụ nông nghiệp đã phát triển sâu rộng, động viên mọi người, mọi ngành tham gia, nhất là các ngành gắn với sản xuất nông nghiệp như: thuỷ lợi, nông nghiệp, điện năng, công nghiệp, cơ khí, vật tư... công đoàn ngành thuỷ lợi đã phát động phong trào thi đua quản lý và khai thác tốt các công trình thuỷ nông, xây dựng và đưa vào phục vụ nông nghiệp ở các huyện Chiêm Hoá, Na Hang, Sơn Dương, Vị Xuyên, Bắc Quang… Anh chị em công nhân các trạm bơm thi đua mở rộng diện tích tưới tiêu phục vụ tốt vụ sản xuất đông xuân, chống hạn vụ mùa, góp phần tăng năng suất lúa và các cây trồng khác. Giai cấp công nhân, viên chức đã hưởng ứng phong trào thi đua với trạm quản lý thuỷ nông Cầu Ghẽ (Hải Hưng) do Tổng Công đoàn Việt Nam và Bộ Thuỷ lợi phát động,  đã có 26 cụm thuỷ nông trong tỉnh đăng  ký. Từ năm 1976 đến 1979 có 12 công trình thuỷ nông được hoàn thành. Đến thời điểm này toàn tỉnh có 80 công trình tưới cho 35.110 ha lúa mùa, 16.000ha lúa đông xuân, thí điểm tưới tiêu theo khoa học cho 131ha, năm 1980 diện tích tưới tiêu theo khoa học tăng lên 4.022ha.

Thi đua với ngành thuỷ lợi, các ngành khác cũng hướng mạnh về phục vụ sản xuất nông nghiệp như ngành vật tư từ năm 1977 đến năm 1979 bình quân hàng năm cung cấp cho nông nghiệp 5.680 tấn phân các loại, 257 tấn giống, hàng trăm tấn thuốc trừ sâu và 1.415m3 gỗ sản xuất nông cụ. Ngành điện đầu tư 13 công trình trị giá 541.000 đồng phục vụ sản xuất nông cụ, xay sát. Ngân hàng cho vay phát triển sản xuất nông nghiệp loại ngắn hạn tăng 4 lần, dài hạn tăng 14 lần so với năm 1979. Trong 2 năm 1977 - 1978 đã khai hoang được 1.000ha, đón 531 hộ với gần 1.000 lao động miền xuôi lên tham gia phát triển kinh tế văn hoá miền núi. Các huyện, thị tổ chức liên kết thi đua phục vụ nông nghiệp giữa công nhân, viên chức với hợp tác xã nông nghiệp. ở huyện nào cũng tổ chức được phong trào làm phân bón, nạo vét mương, thu hoạch khi thời vụ căng thẳng hoặc tình hình lũ lụt đe doạ. Chỉ tính trong 3 năm (1978 đến 1980) đã có 26.522 công, 577 tấn phân các loại phục vụ nông nghiệp. Từ năm 1976 đến 1980 bình quân hàng năm có hàng nghìn công nhân, viên chức là cán bộ quản lý, khoa học kỹ thuật, cán bộ các đoàn thể về với bà con nông dân tham gia sản xuất nông nghiệp.

Nhìn chung phong trào thi đua phục vụ nông nghiệp của các cấp Công đoàn đã động viên được đa số cán bộ, công nhân, viên chức tham gia, đã có tác dụng nâng cao sức sản xuất,  hạn chế tiêu cực trong mối quan hệ giữa các đơn vị với các hợp tác xã nông nghiệp. Thông qua phong trào phục vụ nông nghiệp, bước đầu công đoàn đã thu được kinh nghiệm về tổ chức, vận động công nhân, viên chức thi đua phục vụ sản xuất nông, lâm. Khẳng định lần nữa việc tổ chức phong trào thi đua phục vụ nông nghiệp trong công nhân, viên chức là đúng đắn, tăng cường mối quan hệ đoàn kết công - nông. Phong trào thi đua phục vụ nông nghiệp đã đem lại những kết quả to lớn về nhiều mặt, nhất là về bình quân mỗi năm tăng hơn 1 vạn tấn lương thực ở một tỉnh miền núi còn gặp rất nhiều khó khăn. Đó là thành tích to lớn của đội ngũ công nhân, viên chức góp phần khẳng định khối liên minh công - nông - trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo được củng cố và phát triển.

Từ khi hợp nhất 2 tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, đội ngũ công nhân, viên chức tăng lên nhanh cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, trước nhiệm vụ xây dựng kinh tế kết hợp an ninh quốc phòng biên giới, nhiều lâm trường, công trường, xí nghiệp, trạm, trại được xây dựng. Kết thúc kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980) nữ công nhân, viên chức toàn tỉnh có 30.666 người, chiếm 50% tổng số công nhân, viên chức. Trước và sau khi xảy ra chiến tranh biên giới, lực lượng nữ công nhân, viên chức còn tập trung nhiều ở 6 huyện biên giới. Đây là đội ngũ có truyền thống trong sản xuất và chiến đấu, phần lớn tuổi đời còn trẻ, trình độ giác ngộ chính trị và học vấn khá, là chỗ dựa vững chắc, tin cậy cho phong trào phụ nữ toàn tỉnh trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nghị quyết Đại hội công đoàn Việt Nam lần thứ IV đã chỉ rõ: “Cần phải xây dựng và phát triển các hoạt động của đội ngũ nữ công nhân, viên chức cả nước, góp phần tích cực vào việc thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV”. Được sự chỉ đạo của Ban nữ công Tổng công đoàn Việt nam và Ban Thường vụ Liên hiệp công đoàn, Ban nữ công đã chỉ đạo các Ban nữ công cơ sở đã có những việc làm cụ thể, thiết thực góp phần động viên nữ công nhân, viên chức thi đua chiến đấu, phục vụ chiến đấu, lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới. Song song với việc kiện toàn công đoàn các cấp, nhiệm vụ đầu tiên của Ban nữ công LHCĐ tỉnh là nhanh chóng củng cố, phát triển hệ thống nữ công của công đoàn các cấp. Đây là khâu quan trọng để nối liền hoạt động nữ công của công đoàn tới được phong trào nữ công nhân, viên chức, lao động. Chỉ trong thời gian ngắn các cấp công đoàn đã xây dựng, kiện toàn được ban nữ công công đoàn, cán bộ của các ban nữ công hầu hết là hoạt động bán chuyên trách. Tuy vậy, số cán bộ nữ công công đoàn mới có ở các ngành, huyện, thị xã, công ty xí nghiệp và ở các công, nông, lâm trường lớn. Công tác giáo dục công nhân, viên chức được các ban nữ công cơ sở thường xuyên chú ý. Nhân dịp Đại hội công đoàn, Đại hội phụ nữ tỉnh Hà Tuyên lần thứ I đã có 115 cơ sở và 14.455 nữ công nhân, viên chức được tham gia sinh hoạt chính trị. Ngoài ra còn có 623 nữ công nhân, viên chức chủ chốt được học tập nghị quyết IV của Đảng. Phong trào “người phụ nữ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” được cụ thể hoá thành các phong trào “Ngàn cân trên tháng, vạn cân trên năm” của các nông trường, “Tăng sản phẩm trong giờ, tăng ngày công trong tháng hướng về điểm tựa thân yêu” của ngành sản xuất công nghiệp, “Ngàn đồi cây ơn Bác” của ngành nông lâm đã được hàng vạn chị em công nhân, viên chức hăng hái tham gia.

Các cấp công đoàn từ tỉnh đến cơ sở đều coi trọng công tác tuyên truyền, vận động nữ công nhân, viên chức thực hiện kết quả việc sinh đẻ có kế hoạch. Năm 1980 đã có 9.021 nữ công nhân, viên chức áp dụng các biện pháp tránh thai. Tỷ lệ sinh đẻ của nữ công nhân, viên chức giảm dần từ 14,2% năm 1979 xuống còn 13% năm 1980, góp phần hạ thấp tỷ lệ phát triển dân số hàng năm của tỉnh từ 2,53% năm 1976 xuống còn 2,2% năm 1980.

Phong trào thi đua của khối nữ CNVC tính từ 1978 - 1980 đã có 238 lượt tổ lao động xã hội chủ nghĩa, 717 chị là chiến sỹ thi đua, hàng vạn chị được bình bầu là lao động tiên tiến và danh hiệu người phụ nữ mới. Qua đó thể hiện sự đóng góp xứng đáng, của đội ngũ nữ công nhân, viên chức trong phong trào “người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Dưới sự chỉ đạo của Liên hiệp Công đoàn tỉnh, sự cộng tác và giúp đỡ của các cấp chính quyền công tác chăm lo đời sống, bảo vệ lợi ích của công nhân, viên chức, lao động được công đoàn các cấp thực hiện kịp thời có hiệu quả. Trong bối cảnh tình hình sản xuất gặp nhiều khó khăn như thiếu nguyên vật liệu và phụ tùng thay thế, điện cung cấp thất thường, giá cả ngày càng tăng, chi phí sản xuất cao, chiến tranh cùng với thiên tai dồn dập. Tình hình trên ảnh hưởng sâu sắc đến sản xuất, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được cùng với nhà ở, đi lại, việc làm gặp nhiều khó khăn. Vì thế, đời sống của công nhân, viên chức giảm sút. Nhiều xí nghiệp không đủ việc làm cho công nhân, để công nhân hưởng 70% lương. Do đó, lo đủ việc làm cho công nhân lúc này là vấn đề cấp bách của công đoàn ở các cơ sở. Khắc phục dần việc để công nhân nghỉ việc hưởng phần trăm lương, nhiều cơ sở còn tổ chức mở dịch vụ, sản xuất phụ để công nhân có việc làm. Mặc dù chính quyền và công đoàn các cơ sở đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn không đảm bảo đủ việc làm thường xuyên cho người lao động. ở một số cơ sở sản xuất đình đốn đã không có tiền trả công ngừng việc cho công nhân cũng như thanh toán các chế độ khác.

Với tư cách là thành viên tham gia hội đồng lương, thưởng, sắp xếp lao động và các cấp công đoàn đã tham gia xét nâng lương, nâng bậc, đề nghị rút ngắn thời gian mỗi lần nâng lương và những bất hợp lý khác cho công nhân, viên chức. Theo thống kê, năm 1976 đã trích thưởng từ quỹ lương là 557.000đ, 5.328 người được nâng lương, 80% công nhân làm theo định mức được tăng lương từ 10-20% người/tháng.

Do việc trợ cấp cho công nhân, viên chức còn nhiều khó khăn, các cấp công đoàn đã tham gia với chuyên môn cách thức giải quyết trợ cấp thường xuyên và đột xuất cho các đối tượng theo đúng chính sách, do đó giảm được một phần khó khăn cho người lao động. Đầu năm 1976, công đoàn đã chủ động đề xuất với tỉnh giải quyết kịp thời chế độ trợ cấp chuyển vùng cho công nhân, viên chức lên công tác tại thị xã Hà Giang và xét trợ cấp khó khăn được 3600.000đ; Năm 1979 đã xét trợ cấp theo Chỉ thị 354 của Chính phủ về trợ cấp khó khăn cho những gia đình có thu nhập thấp, ước tính số người được trợ cấp chiếm khoảng 20% trở lên. Công đoàn tham gia xét duyệt phân phối nhà ở, đất ở cho người lao động đúng đối tượng, bảo đảm chế độ chính sách. Ngoài ra, công đoàn các cấp còn tổ chức động viên phát triển phong trào tăng gia để cải thiện đời sống, đã thu hút được nhiều đơn vị, cá nhân tham gia. Theo thống kê, từ năm 1978 đến năm 1980 công nhân, viên chức trong tỉnh đã cấy được 949 ha lúa, trồng được 1.809 ha sắn, 42 ha dong riềng, 119 ha đậu tương, 78ha khoai, đào được 21 ao thả cá, nuôi được 3.615 con lợn, 680 con trâu, bò và hàng chục ha rau xanh. Riêng năm 1979 tập hợp ở 35 cơ sở, thịt các loại thu được 92.971 kg đạt bình quân 5kg/người, lương thực gồm (lúa, ngô, sắn) được 282.750kg bình quân 16kg/người.Tiêu biểu như lâm Trường Trần Phú bình quân mỗi cán bộ công nhân tăng gia được 90kg chất bột, 30kg thịt các loại. Nhiều công đoàn cơ sở đã kết hợp các hình thức như mượn ruộng, phát nương, khai phá đất hoang, tăng gia chăn nuôi tại chỗ đạt kết quả cao, công đoàn tham gia quản lý phân phối các mặt hàng định lượng như: gạo, thịt, nước mắm, mì chính, vải, chất đốt…kiểm tra hoạt động các cửa hàng phục vụ công nhân, viên chức, đảm bảo được việc phân phối công bằng đối với người lao động.

Công đoàn các cấp còn tham gia xây dựng nhà ăn tập thể, tổ chức thực hiện bữa ăn ca 3, bồi dưỡng độc hại cho công nhân. Các nhà ăn tập thể được thành lập mỗi năm một tăng, riêng năm 1979 đã thành lập được 73 hội đồng bồi dưỡng nghiệp vụ cho 36 quản lý, tay nghề cho 124 cấp dưỡng. Phong trào xây dựng nhà ăn “3 tốt” được quan tâm và phát triển. Năm 1976 có 20% đạt tiêu chuẩn nhà ăn “3 tốt” thì đến năm 1979 mới tính ở 9 cơ sở đã có 65 nhà ăn đạt tiêu chuẩn 3 tốt, trong đó  có 10 nhà ăn tiên tiến được tặng danh hiệu thi đua tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa. Các hội đồng nhà ăn đã thực hiện chức năng giám sát, thực hiện quản lý tay ba  được đa số công nhân, viên chức hoan nghênh.

Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước nhất là Sở lao động thương binh xã hội, các cấp công đoàn làm tốt công tác an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, chú trọng xây dựng mạng lưới làm công tác bảo hộ lao động ở các công trường, lâm trường, xí nghiệp lớn và những nơi có nhiều độc hại. Hàng năm tổ chức học tập cho công nhân, hướng dẫn công nhân về công tác bảo hộ lao động. Cùng Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Sở Thương Nghiệp, kế hoạch kiểm tra việc phân phối trang bị phòng hộ cho công nhân, viên chức, tổ chức bồi dưỡng cán bộ làm công tác an toàn lao động tham gia giải quyết các vụ tai nạn đã xảy ra. Thi đua với Nhà máy giấy Việt Trì (Phú Thọ) về vệ sinh an toàn lao động toàn tỉnh đã có 56/97 cơ sở hưởng ứng, 68/652 phân xưởng, 254/2.526 tổ công đoàn có mạng lưới làm công tác an toàn vệ sinh lao động, Những việc làm đó của công đoàn đã góp phần tích cực ngăn chặn, làm hạn chế các vụ tai nạn lao động xảy ra, đặc biệt là các vụ tai nạn lao động nặng. Hàng năm, công đoàn tỉnh tổ chức kiểm tra, kiểm tra chấm điểm cho các đơn vị, công nhận những đơn vị đạt tiêu chuẩn an toàn lao động. Theo thống kê năm 1979 có 13 cơ sở 215 tổ và 328 người hoạt động khá. Số vụ tai nạn lao động nặng hoặc chết người có chiều hướng gia tăng. Năm 1976 xảy ra 2 vụ chết người, năm 1979, 9 vụ chết người. Nguyên nhân xảy ra là việc chấp hành quy tắc về bảo hộ lao động kém, cán bộ có trách nhiệm thiếu quan tâm, công nhân làm bừa, làm ẩu và coi thường không sử dụng trang bị bảo hộ lao động. Những vụ tai nạn chết người xảy ra, công đoàn đã cùng các cơ quan liên quan giải quyết đúng chế độ chính sách cho các nạn nhân.

Cùng với việc chăm lo đời sống công nhân, viên chức, công đoàn các cấp chú ý làm khá tốt công tác thanh tra, khiếu tố. ở các công đoàn huyện, thị, ngành và những cơ sở lớn đều thành lập được các đội kiểm tra công nhân. Hoạt động của các đội kiểm tra công nhân đã góp phần lập lại trật tự trong khâu phân phối, lưu thông, thu lại cho Nhà nước nhiều tiền của, hàng hoá, đấu tranh bảo đảm thi hành đúng chế độ chính sách cho công nhân, viên chức. Trong 3 năm  (1978-1980) có 27 đội kiểm tra công nhân và 130 thành viên đã kiểm tra 20 lượt với hàng trăm điểm ở các cửa hàng lương thực, thực phẩm, bách hoá, phát hiện hàng trăm vụ vi phạm về phân phối lưu thông. Sau mỗi lần kiểm tra đều có các kiến nghị với các cơ quan chủ quản để xử lý các vi phạm. Kết quả kiểm tra được các cấp uỷ Đảng, Chính quyền và nhân dân hoan nghênh, khuyến khích các đội kiểm tra hoạt động.

Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, nhằm bảo đảm những quyền lợi chính đáng cho công nhân, viên chức, lao động, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta. Vì vậy, công tác quản lý sự nghiệp bảo hiểm xã hội được Ban Thường vụ Liên hiệp Công đoàn xác định “Không chỉ là công tác quản lý nghiệp vụ đơn thuần mà còn là công tác chính trị tư tưởng, công tác vận động quần chúng”, phương thức công tác trên đã được quán triệt sâu sắc đến các công đoàn cơ sở. Nhiệm vụ của công đoàn là: phải làm cho toàn thể công nhân, viên chức nắm được ý nghĩa, nội dung của chế độ bảo hiểm xã hội, nắm được quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện chế độ. Hàng năm, Liên hiệp Công đoàn bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ cơ sở về các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, về công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình.

Từ năm 1976, công tác Bảo hiểm xã hội đã được Liên hiệp công đoàn tỉnh chỉ đạo kịp thời, thực hiện tốt các chế độ chính sách đối với người lao động, nhất là chi cho ốm đau, thai sản, tai nạn lao động. Bảo hiểm xã hội do công đoàn phụ trách đã tăng lên 205 cơ sở làm cho công tác quản lý phải được kiện toàn và tăng thêm cán bộ. Các ban bảo hiểm xã hội ở cơ sở từng bước được củng cố, phần lớn cán bộ đều có kiến thức về quản lý tài chính, lao động tiền lương. Nhiều đơn vị đã xây dựng được mối quan hệ tốt giữa công đoàn và chuyên môn trong việc quản lý sự nghiệp bảo hiểm xã hội. Các cấp công đoàn đã tham gia hội đồng giám định y khoa để xem xét các trường hợp thương tật, tai nạn lao động, hưu trí, mất sức lao động và quản lý sức khoẻ cho công nhân, viên chức. Phối hợp với các ngành chuyên môn thực hiện phòng bệnh, phòng dịch, kiểm tra an toàn lao động, chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình…đồng thời chọn những gia đình tiêu biểu  để khen thưởng như ở nông trường Hùng An đã lựa chọn hơn 15 gia đình làm tốt công tác kế hoạch hoá gia đình.

Quản lý quỹ bảo hiểm xã hội lúc đầu là hình thức tọa chi, về sau chuyển sang hình thức thu tập trung, cấp phát theo dự toán, khắc phục được tình trạng tản nạn thiếu chặt chẽ nên năm 1976 giảm chi được 3% so với năm 1975. Trong 5 năm (1976-1980) số tiền đã chi cho ba chính sách là: 9.386.117 đồng, trong đó chi cho ốm đau là 5.259.938 đ, con ốm mẹ nghỉ 1.178.718 đ, nghỉ đẻ 2.104.764 đ, tai nạn lao động 87.590 đ.

Cùng với bảo hiểm xã hội, nhiều hình thức nghỉ ngơi, giải trí, bồi dưỡng sức khoẻ được các cấp công đoàn chú ý. Ngoài chế độ bồi dưỡng tại chỗ các cấp công đoàn còn tổ chức trại hè cho con em công nhân, viên chứ, nghỉ dưỡng sức cho người nghỉ hưu, mất sức lao động, cán bộ cách mạng lão thành. Trong 5 năm 1976-1980 bồi dưỡng tại chỗ cho công nhân, viên chức được 475.992đ (riêng năm 1976 là 75.992đ cho 6281 người). Thời kỳ xảy ra chiến tranh biên giới, Tổng Công đoàn Việt Nam còn dành hiện vật trị giá hàng trăm ngàn đồng để bồi dưỡng cho công nhân, viên chức ở các huyện biên giới. Ngày 2 tháng 9 năm 1978 Nhà nghỉ dưỡng sức Nông Tiến – cơ sở phúc lợi lớn đầu tiên của công nhân, viên chức trong tỉnh đã chính thức mở cửa đón khách vào nghỉ sau 2 năm xây dựng. Tính đến ngày 27 tháng 12 năm 1980 nhà nghỉ đã đón được 3 nghìn công nhân, viên chức của tỉnh nhà và nhiều công nhân, viên chức các tỉnh bạn và bạn bè Quốc tế. Ngoài ra các cấp công đoàn còn bố trí hàng nghìn công nhân, viên chức đi nghỉ ở các nhà nghỉ trong cả nước. Riêng 3 ngành Lâm nghiệp, Công nghiệp, Giao thông đã tổ chức cho 3.786 lượt người đi nghỉ dưỡng sức. Một số xí nghiệp lớn còn xây dựng được nhà nghỉ, tạo thuận lợi cho công nhân, viên chức đến nghỉ ngơi. Trong 2 năm (1976-1977), Liên hiệp công đoàn Hà Tuyên đã cử được 17 đồng chí cán bộ công đoàn, cán bộ quản lý, tiêu biểu đi thăm quan, nghỉ mát tại các nước XHCN.

Các hình thức nghỉ ngơi đã góp phần nâng cao sức khoẻ cho công nhân, viên chức bồi dưỡng tinh thần lạc quan yêu đời, hạn chế bệnh tật.nâng cao hiệu quả công tác. Công đoàn các cấp trong tỉnh còn chú ý đúng mức đến đời sống tinh thần của công nhân viên chức. Thông qua các hoạt động thể dục-thể thao, văn hoá-văn nghệ, đọc sách, nghe đài, phối hợp với ngành văn hoá-thông tin, hội văn học nghệ thuật tổ chức liên hoan văn nghệ, thi đấu thể thao, xây dựng phòng truyền thống…đặc biệt đội chiếu bóng của Liên hiệp công đoàn đã luôn đi về các lâm trường, nông trường, nhà máy, xí nghiệp phục vụ cho hàng vạn người xem góp phần nâng cao đời sống tinh thần của công nhân, viên chức. Bên cạnh đó, các cấp công đoàn còn tích cực xây dựng thư viện, phòng đọc sách năm 1978 toàn tỉnh có 287 tủ sách, gần một nghìn tổ, đội văn nghệ quần chúng phục vụ vui chơi giải trí cho công nhân, viên chức, lao động.

3. Phong trào Công nhân, công đoàn Tuyên Quang (Hà-Tuyên) trong chiến đấu bảo vệ biên giới.

Từ năm 1978 các thế lực phản động đã tìm mọi cách phá hoại công cuộc xây dựng CNXH trên đất nước ta. Chúng đã lần lượt gây ra các cuộc chiến tranh biên giới Tây nam, biên giới phía bắc và gây nhiều cuộc bạo loạn ở bên trong hòng thực hiện âm mưu bá quyền, bành trướng, nước lớn.

Trước tình hình trên, Đảng ta chủ trương: “Nhiệm vụ của các tỉnh phía Bắc là trong khi tập trung chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất đông xuân, thực hiện kế hoạch quý I, phải khẩn trương nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng đập tan âm mưu địch lấn chiếm, xâm phạm biên giới Tổ quốc ta (bao gồm cả vùng biển và hải đảo)”.

Là một trong 6 tỉnh biên giới phía Bắc của Tổ quốc, Hà Tuyên có vị trí chiến lược quan trọng cả về kinh tế lẫn quốc phòng, nhất là trong chiến đấu bảo vệ chủ quyền biên giới lãnh thổ.

Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ; tổ chức công đoàn đã động viên công nhân, viên chức thực hiện “tay búa, tay súng” quyết tâm đánh thắng quân xâm lược. Các cấp công đoàn cùng với chính quyền ngay từ tháng 4 năm 1978 đã khẩn trương thực hiện công tác chuẩn bị. Về tư tưởng đã tổ chức quán triệt, giáo dục làm cho cán bộ công nhân, viên chức thấy rõ kẻ thù, nhận thức được nhiệm vụ mới và tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng, có quyết tâm chống quân xâm lược. Liên hiệp công đoàn đã cùng với các ngành xây dựng các phương án chiến đấu, chuẩn bị đường sá, tăng cường trang bị cho các lực lượng, có kế hoạch di chuyển cơ quan, sơ tán người và tài sản, tăng cường kiểm tra mọi mặt, luôn sẵn sàng ở tư thế chiến đấu. Đặc biệt đã dồn sức để xây dựng và chuẩn bị cho tuyến 1  kịp thời đánh địch, bảo vệ vững chắc biên cương. Đến đầu năm 1979 quân và dân Hà Tuyên đã có thế trận sẵn sàng tiêu diệt sinh lực địch, bảo vệ được chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc khi chiến tranh nổ ra.    

Ngày 17 tháng 2 năm 1979 cuộc chiến tranh xâm lược nước ta đã diễn ra trên toàn tuyến biên giới, lực lượng địch gồm 60 vạn tên thuộc nhiều quân đoàn chính quy và nhiều sư đoàn độc lập với hàng trăm xe tăng, xe bọc thép và hàng nghìn pháo lớn đã tấn công trên toàn tuyến biên giới.

Tại Hà Tuyên, quân xâm lược huy động 1 trung đoàn chia làm nhiều mũi có pháo, cối, ĐKZ yểm trợ tiến công khu vực Lũng Làn, uy hiếp huyện lỵ Mèo Vạc. Liên tiếp các ngày sau đó địch dùng nhiều tiểu đoàn, trung đoàn có pháo cối yểm trợ tiến công xâm lược huyện Quản Bạ, Vị Xuyên, Hoàng Su Phì, đến đầu tháng 3 năm 1979 chiến tranh đã nổ ra trên toàn tuyến biên giới Hà Tuyên.

Với tinh thần cách mạng “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, nêu cao truyền thống bất khuất, khí phách kiên cường của dân tộc, phát huy sức mạnh vĩ đại của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, các lực lượng vũ trang cùng đồng bào các dân tộc Hà Tuyên được các tỉnh bạn và cả nước hết lòng chi viện đã chiến đấu anh dũng,bẻ gãy các mũi tiến công của bọn xâm lược, buộc chúng phải tháo chạy về bên kia biên giới. Công nhân, viên chức lâm trường các huyện Mèo vạc, Đồng văn, Quảng bạ…đã vừa chiến đấu, vừa sơ tán về tuyến sau bảo vệ được lực lượng, duy trì chiến đấu lâu dài

Quán triệt lời kêu gọi của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Lệnh tổng động viên của Nhà nước, quân dân Hà Tuyên đã chiến đấu góp phần loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 tên xâm lược, phá huỷ 280 xe tăng, 270 xe vận tải, 115 khẩu pháo và súng cối, thu nhiều phương tiện chiến tranh, bắt nhiều tù binh.

Sau khi bị thất bại trong chiến tranh xâm lược biên giới, bọn phản động và các thế lực đế quốc lại dùng nhiều thủ đoạn chiến tranh phá hoại, chiến tranh tâm lý để phá ta như phao tin đồn nhảm, bịa đặt xuyên tạc sự thật, lợi dụng những khó khăn về kinh tế và đời sống nhân dân, tung gián điệp, biệt kích vào đất ta, cho nhiều tốp máy bay xâm phạm lãnh thổ, lấn chiếm đất đai.

Trong chiến tranh Hà-Tuyên đã bị đánh phá nghiêm trọng nhất là các cửa hàng, trạm trại, xe cộ, đường giao thông, kho tàng và các điểm dân cư như Thanh Thuỷ, lao Chải, Xín Chải (Vị Xuyên),Bạch Đích (Yên Minh), Sơn Vĩ, Thượng Phùng (Mèo Vạc), Nghĩa Thuận (Quản Bạ), Bản Máy (Hoàng Su Phì)... đã ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của đồng bào các dân tộc vùng cao.

Tháng 3 năm 1979 quân xâm lược tràn vào thị trấn phố Bảng thực hiện chính sách 3 sạch “Cướp sạch, phá sạch, đốt sạch”. Chúng đã bắn hơn 61.000 quả đạn pháo các loại vào thị xã, thị trấn, trường học, bệnh viện, cửa hàng. Trong đó địch đánh phá ác liệt vào 25 điểm dân cư thuộc 17 xã biên giới và gần biên giới, nhiều cơ sở bị bắn phá rất dã man như kho hàng hoá huyện Xín Mần, nhà máy thuỷ điện Suối Sửu. Có khu vực bị địch đánh phá mang tính huỷ diệt như lâm trường Mèo Vạc, các cửa hàng lương thực, cửa hàng bách hoá huyện Xín Mần. Thậm chí chúng bắn phá, gài mìn phá hỏng từng chiếc xe trên các đoạn đường từ Na Khê đi Yên Minh, từ Đồng Văn đi Mèo Vạc. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới nhiều đoàn viên công đoàn đã trực tiếp chiến đấu và anh dũng hy sinh. Từ năm 1980 các huyện biên giới tỉnh Hà-Tuyên là trọng điểm chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch. Chúng đã bắn pháo dài ngày, liên tục và sử dụng lực lượng quân sự tiến công lấn chiếm một số điểm cao thuộc huyện Yên Minh và Vị Xuyên. Tháng 4 năm 1984 địch sử dụng lực lượng pháo binh lớn bắn chi viện cho bộ binh lấn chiếm các huyện, nghiêm trọng hơn là vào hồi 16 giờ ngày 22 tháng 5 năm 1984 quân phản động đã dùng pháo 130 ly bắn vào thị xã Hà Giang.

Chiến tranh làm đảo lộn nhiều mặt đời sống xã hội, gây ra nhiều khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân và công nhân, viên chức. Kế hoạch không ổn định, nguyên vật liệu thiếu thốn, giờ giấc lao động luôn luôn biến động, ăn, ở, đi lại phân tán xa xôi, nhất là chị em công nhân, viên chức có con nhỏ.

Quán triệt chủ trương của Đảng, Nhà nước, Tổng công đoàn Việt nam và của Tỉnh uỷ, các cấp công đoàn đã góp phần vận động công nhân, viên chức nhanh chóng thích hợp với tình hình mói. Mọi hoạt động của phong trào công nhân, viên chức và công đoàn đã phù hợp với tình hình thời chiến. Công đoàn đã cùng với cơ quan quản lý, lãnh đạo, hướng dẫn quần chúng xây dựng và thực hiện kế hoạch “3 tình huống”,  các phương án 3 lực lượng (lực lượng chiến đấu, lực lượng phục vụ và lực lượng chuẩn bị đưa về tuyến sau). Để tránh và giảm bớt những thiệt hại về người và tài sản, công đoàn đã động viên công nhân, viên chức lao động làm hầm hào, làm đường, giữ chốt, vận chuyển đạn dược hàng hoá. Mới tính ở 92 cơ sở, đã huy động 15-20% số lao động với 100.000 ngày công đi xây dựng tuyến phòng thủ. Riêng ngành Lâm nghiệp đã huy động được 66.172 công chưa kể 33.284 công giữ chốt, đã đào đắp được 30 nghìn chiếc hầm, 600 nghìn mét hào, mở 90 km đường ô tô, vận chuyển hàng trăm tấn đạn dược, lương thực. Toàn tỉnh đã có 200 đơn vị đã được củng cố, biên chế lại lực lượng tự vệ thành các trung đội, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn thường xuyên luyện tập, tuần tra canh gác, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ sản xuất, bảo vệ cơ quan xí nghiệp. Các đơn vị tự vệ ở tuyến 1 có 80% được trang bị vũ khí, các đơn vị lớn được trang bị vũ khí hạng nặng như: Cối 12ly, pháo cao xạ và thường xuyên được tổ chức báo động tập dượt kiểm tra, tu sửa hầm hào sẵn sàng chiến đấu cao, như đơn vị tự vệ ở các huyện Chiêm Hoá, Na Hang, Sơn Dương, Thị xã Tuyên Quang…

Trước khi chiến tranh biên giới diễn ra ác liệt, các cơ quan của tỉnh đã chuyển về thị xã Tuyên Quang, nhiều huyện lỵ gần biên giới phải chuyển vào vị trí an toàn. Các cơ quan huyện Đồng Văn phảỉ 3 lần di chuyển địa điểm, huyện Xín Mần chuyển địa điểm mới xa tới 50 km không có đường ô tô, phải dùng ngựa thồ và sức người mang vác, có thứ phải vận chuyển bằng ô tô xa tới 160km. Các huyện biên giới khác phải dành công sức, tiền của xây dựng hậu cứ phía sau đề phòng chiến tranh lan tới như Mèo Vạc, Yên Minh, Hoàng Su Phì. Một số nhà máy xí nghiệp phải phân tán nhỏ, sơ tán lùi về phía sau.

Thời điểm này các huyện Yên Sơn, Chiêm Hoá, Na Hang, Hà Miên và đặc biệt là Thị xã Tuyên Quang đã trở thành hậu phương trực tiếp của các huyên biên giới. Tại đây các cấp công đoàn đã tổ chức đón tiếp, ổn định chỗ ở, làm việc cho hàng chục cơ quan đơn vị với hàng vạn người từ thị xã Hà Giang và các huyện biên giới chuyển về. Đồng thời từ các huyện ở phía sau của Hà Tuyên đã tổ chức chi viện hàng vạn tấn lương thực, vữ khí và hàng ngàn chiến sĩ, dân quân tự vệ lên chiến đấu ở miền biên giới. Thời điểm này Tuyên Quang thật sự là hậu phương của cả tỉnh Hà Tuyên và một số nơi khác thuộc các tỉnh phía bắc tổ quốc.

Chiến tranh đã làm cho sản xuất bị đình trệ, thu thập của công nhân giảm sút. Hàng nghìn gia đình công nhân, viên chức phải sơ tán chịu đựng khó khăn, thiếu thốn mọi mặt. Trước tình hình đó, công đoàn các cấp đã tích cực giáo dục, động viên làm cho công nhân, viên chức yên tâm và phát huy được chủ nghĩa anh hùng cách mạng, khắc phục khó khăn giữ vững sản xuất, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước. Trước yêu cầu chi viện sức người, sức của cho tuyến 1 “vì điểm tựa tiền tiêu, vì biên cương Tổ quốc đánh thắng quân xâm lược” công đoàn đã động viên hàng nghìn anh em công nhân ở tuyến sau tình nguyện lên biên giới làm nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu. ở ngay cơ quan Liên hiệp Công đoàn Hà -Tuyên đẫ có 13 đồng chí chiếm gần 1/3 biên chế cơ quan xung phong xuống cơ sở và lên tuyến 1 công tác. Ngoài ra còn có hàng nghìn cán bộ của Trung ương, tỉnh, huyện, tăng cường các xã vùng cao ngày đêm lặn lộn với phong trào ở cơ sở.

Ngành Giao thông-vận tải, thông tin, liên lạc là những mục tiêu bị địch đánh phá ác liệt. Nhiều điểm bị đánh đi đánh lại và bị uy hiếp thường xuyên, đoạn đường từ Na Khê đi Yên minh, Hoàng Su Phì đi Cốc Pài đều bị địch bắn phá dữ dội. Nhiều điểm trên đoạn đường từ Đồng Văn đi Mèo Vạc bị địch đặt mìn phá hoại. Nhiều đường dây thông tin bị phá hỏng. Song, bom đạn của giặc không khuất phục được ý chí kiên cường của anh chị em công nhân, viên chức với khẩu lệnh chấm đầm lôi: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, “Sống bám đường chết kiên cường dũng cảm”, “Địch đánh, ta sửa ta đi”, “Địch đánh ngày ta làm đêm”, đoạn đường Na Khê, Đồng Văn bị phá hỏng nhiều lần, đêm đêm những người công nhân ở các hạt 5,8,10 công ty cầu đường 1,2,3 sửa chữa, đảm bảo việc vận chuyển giữa tuyến trước với tuyến sau được thông suốt, liên tục. Anh em lái xe công ty ô tô, công ty chè, công ty xây dựng, mưu trí, dũng cảm cho xe vượt qua dưới làn pháo địch, đưa hàng tới đích. Cán bộ công nhân trạm vận tải 1 Hà Giang, trạm vận tải và sửa chữa Mậu Duệ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vận chuyển, sửa chữa phương tiện đáp ứng yêu cầu chiến đấu. Cán bộ công nhân lâm trường Hoàng Su phì được giao nhiệm vụ mở đường phục vụ chiến đấu trong 7 ngày nhưng 6 ngày họ đã làm xong với cường độ lao động vượt 186%. Trong chiến tranh ác liệt nhiều tập thể và cá nhân của ngành Giao thông vận tải đã nêu gương sáng về lòng dũng cảm, chí kiên cường. Được nhân dân ủng hộ, công nhân, viên chức ngành Giao thông đã huy động hàng vạn ngày công đóng góp được 1.400.000 ngày công làm nhiều đường nhánh lên các huyện biên giới, đường từ các trục lộ lên hơn 200 điểm tựa trên các đỉnh núi chon von, từ Pà Vầy Sủ (huyện Xín Mần) đến Sơn Vĩ (huyện Mèo Vạc). Cán bộ, kỹ sư, công nhân đã có nhiều sáng kiến, cải tiến kỹ thuật được áp dụng để xử lý có hiệu quả nền móng đường, tạo mặt đường ngầm, các khúc quanh. Anh em lái xe linh hoạt, biến hoá trong vận tải, đưa hàng tới đích an toàn. Phương thức vận tải rất cơ động: kết hợp cơ giới với thô sơ xe bò, xe ngựa, ngựa thồ, xe quệt, có đoạn chưa mở đường vào kịp thì dùng sức người khiêng, vác, gùi.

Được thử thách trong chiến tranh ngành Giao thông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giữ vững mạch máu giao thông, đảm bảo tốt việc vận tải phục vụ sản xuất và chiến đấu. Phong trào công nhân, viên chức và công đoàn ngành Giao thông trưởng thành lớn mạnh về mọi mặt.Hàng trăm đơn vị và cá nhân được tặng thưởng Huân chương, bằng khen.

Công đoàn ngành bưu điện với khẩu hiệu “quyết giữ vững thông tin liên lạc trong mọi tình huống”. Suốt thời kỳ chiến tranh biên giới mạng lưới thông tin được mở rộng đáp ứng yêu cầu chiến đấu và lao động sản xuất. Anh em kỹ sư, công nhân đã xây dựng nhiều tuyến đường dây đến các mặt trận, lên các điểm tựa nhiều máy vô tuyến điện được tăng cường nhất là các huyện tuyến 1. Ngành còn tổ chức 7 đội đường thư hoả tốc ở 7 huyện bảo đảm phục vụ thông tin cho các cơ quan Đảng, chính quyền, quân đội và công an hoạt động xuất sắc trong thời kỳ có chiến tranh. Được nhân dân đóng góp 24.000 cây cột, chỉ trong một thời gian ngắn ngành đã xây dựng 210km đường dây điện thoại ở các nơi diễn ra cuộc chiến đấu ác liệt trong tổng số 315 km đường giây nói chung. Sự phối hợp chặt chẽ giữa thông tin trong ngành với thông tin của các lực lượng vũ trang đã phục vụ tốt cho việc chỉ huy chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Tiêu biểu như công nhân cán bộ Bưu điện Mèo Vạc, Yên Sơn, Hàm Yên, Thị xã Tuyên Quang. Nhất là các tổ đường giây trọng điểm ở Sơn Dương, Chiêm Hoá, anh em công nhân ngay dưới làn đạn địch đã giữ vững thông tin liên lạc trong suốt.

Các nhà máy, xí nghiệp của tỉnh cũng bị đánh phá, như nhà máy, thuỷ điện 302, 304 đến các xưởng chè Thanh Thuỷ, Phương Tiến…, Công đoàn đã kêu gọi “mỗi công nhân là một chiến sỹ, mỗi nhà máy xí nghiệp là 1 pháo đài” . ở hầu khắp các xí nghiệp, công trường đều sôi nổi đăng ký tình nguyện làm thêm ngày, thêm ca, thêm giờ, không nghỉ phép năm, nhiều phân xưởng, tổ, đội và cá nhân xây dựng chương trình phấn đấu vượt kế hoạch Nhà nước đề ra.

Tại nhà máy Thuỷ điện Suối Sửu, công nhân và cán bộ kỹ thuật đã dũng cảm sửa chữa đường ống áp lực, đường dây ngay sau khi địch đánh phá, giữ cho dòng điện được liên tục. Công nhân, viên chức kho lương thực, cửa hàng bách hoá huyện Xín Mần dũng cảm cứu hàng hoá, tài sản của Nhà nước khi địch đánh phá. Đội 784 lâm trường Mèo Vạc bị bắn phá, nhiều đồ đạc, tài sản riêng của anh em bị cháy nhưng nhiều người vẫn bình tĩnh dũng cảm sát cánh cùng bộ đội chống giặc ngoại xâm, cứu kho hàng, cứu người bị thương. Trong cuộc chiến tranh biên giới chống quân xâm lược (1979-1984),  nhiều nhà máy, xí nghiệp, công, nông, lâm trường trong tỉnh đã xuất hiện những công nhân sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi được Nhà nước và công đoàn biểu dương khen thưởng.

Chiến tranh xâm lược, chiến tranh phá hoại nhiều mặt của bọn phản động không làm cho nền kinh tế xã hội của tỉnh chững lại mà vẫn phát triển. Sản xuất công nghiệp của tỉnh vẫn đứng vững; nông, lâm nghiệp vẫn bảo tồn đảm bảo thực hiện được kế hoạch nhà nước giao. Trong khoảng thời gian từ 1979 đến 1984, Hà - Tuyên đã xây dựng thêm 13 xí nghiệp địa phương đưa tổng số xí nghiệp địa phương lên 53 nhà máy, hình thành nhiều ngành công nghiệp sửa chữa cơ khí, ô tô, máy kéo, sửa chữa truyền thanh, may cắt gia công, sản xuất vật liệu xây dựng, thuỷ tinh, chế biến lương thực, thực phẩm, chế biến gỗ, khai thác lâm sản, thuốc chữa bệnh…

Tuy còn nhiều khó khăn, nhưng ngay trong chiến tranh sự nghiệp y tế của Hà - Tuyên vẫn không ngừng phát triển. Mạng lưới 156 trạm xá được củng cố, các bệnh xá vùng, bệnh viện huyện, thị xã và bệnh viện tỉnh được trang bị thêm phương tiện, thiết bị chữa bệnh, cứu chữa bệnh nhân, thuốc men được dự phòng khá đầy đủ. Phong trào trồng cây thuốc nam, phong trào thực hiện 3 công trình và vệ sinh phòng bệnh được phát triển sâu rộng trong nhân dân giảm tỷ lệ tử vong từ 2,7% năm 1978 xuống còn 2,03% trong 9 tháng năm 1979. Khẩu hiệu “Thầy thuốc như mẹ hiền” không sợ hy sinh, sẵn sàng phục vụ chiến đấu trở thành hành động của đông đảo các thầy thuốc ngành Y tế. Hàng trăm anh chị em y tá, bác sĩ, y sĩ, hộ lý ở các bệnh viện tỉnh, bệnh viện thị xã Tuyên Quang, Chiêm Hoá, Yên Sơn…Phân Viện Mẫu Duệ, các trạm phẫu thuật tiền phương đã nêu cao tinh thần dũng cảm, tận tuỵ phục vụ thương binh, bệnh binh.

Công nhân, viên chức ngành Thương nghiệp, Lương thực, Thực phẩm, Vật tư là người nội trợ đắc lực của bộ đội và tự vệ chiến đấu. Ngay sau mỗi trận chiến đấu, anh chị em đã mang hàng hoá đến tận trận địa phục vụ chiến sỹ, góp phần bảo đảm cho bộ đội, tự vệ ăn no, đánh thắng. Qua đó làm tốt việc phân phối, cung cấp hàng hoá, giữ được mức sinh hoạt bình thường cho cán bộ công nhân, viên chức và nhân dân trong thời chiến.

Sự nghiệp giáo dục ở các huyện biên giới bị chững lại do ảnh hưởng của chiến tranh. Nhiều trường học bị pháo địch bắn phá, học sinh phải sơ tán về tuyến sau, phải mất một thời gian dài mới ổn định được tổ chức trường lớp nơi sơ tán. Đội ngũ giáo viên đã nhanh chóng khắc phục khó khăn, ổn định việc dạy và học theo tinh thần dạy tốt và học tốt. Nhiều trường trở thành trường tiên tiến xuất sắc, nhiều khoa, nhiều phòng trở thành tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa nhiều năm liền. Riêng năm 1983 có 37 tổ lao động trong ngành giáo dục được công nhận danh hiệu tổ lao động XHCN.

Các mặt hoạt động thông tin, văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao nhất là các đội văn nghệ quần chúng, sinh hoạt câu lạc bộ, đọc sách hoạt động tích cực và có nhiều tiến bộ, góp phần đáng kể vào việc phục vụ sản xuất và chiến đấu. Phong trào tốp ca xung kích “Tiếng hát át khó khăn”, “Tiếng hát át tiếng pháo” với 136 diễn viên tham gia có tác dụng tích cực trong đời sống tinh thần của cán bộ, công nhân, viên chức, lao động.

Cùng với việc tổ chức động viên công nhân, viên chức “sản xuất giỏi, chiến đấu phục vụ chiến đấu giỏi” công đoàn các cấp trong tỉnh coi trọng việc chăm lo đời sống của công nhân, viên chức, lao động. Công đoàn nhiều nhà máy, xí nghiệp, cơ quan đã kết hợp với giám đốc, thủ trưởng cơ quan bố trí lại bộ máy, sắp xếp lại các khâu lao động tổ chức sản xuất phụ, đảm bảo thu nhập hàng tháng cho công nhân, cán bộ. Các cấp công đoàn đã phối hợp với chuyên môn làm tốt việc xét trợ cấp, bồi dưỡng tại chỗ cho công nhân, viên chức, lao động. Năm 1980, công đoàn đã trích 2.149.000đ cho 18 đơn vị ngành, huyện, thị để thưởng cho công nhân, viên chức, xét trợ cấp cho 14.134 công nhân, viên chức có thu nhập thấp với số tiền 561.410đ.  Ngoài ra hàng nghìn công nhân, viên chức được đến nghỉ ngơi tại nhà nghỉ Nông Tiến, trong đó có 12 cán bộ đoàn viên có thành tích xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Phong trào tăng gia “4 cây, 4 con”  để cải thiện đời sống cho công nhân, viên chức do công đoàn tổ chức thu được kết quả đáng kể. Năm 1979 tập hợp ở 45 cơ sở, thịt cá các loại đã thu hoạch được 92.971kg, lương thực được 282.750kg, có 17 cơ sở đã bán cho Nhà nước được 212.395 kg chất bột.

Các cấp công đoàn đã hoạt động rất tích cự trong các hội đồng phân phối, đảm bảo sự công bằng trong phân phối hàng hoá tới tay công nhân, viên chức. Tuy phải dồn tiền, của cho cuộc chiến đấu nhưng đứng trước khó khăn gay gắt về chỗ ở của hàng nghìn hộ gia đình ở thị xã Hà Giang, tỉnh đã giành một phần ngân sách để xây dựng các khu tập thể như khu 80 gian, khu A,B,C. Bước sang năm 1980 đã có hàng trăm gia đình công nhân, viên chức được nhận chỗ ở mới, nhanh chóng ổn định công việc và đời sống. Mặt khác, công đoàn còn tích cực tổ chức khám bệnh nghề nghiệp định kỳ cho công nhân lao động, các chính sách ốm đau, thai sản, tai nạn lao động được công đoàn quản lý chặt chẽ, chi trả kịp thời cho công nhân, viên chức, lao động.

Cùng với việc chăm lo đời sống vật chất, công đoàn còn coi trọng đời sống văn hoá tinh thần của người lao động. Mỗi năm đã có hàng trăm công nhân lao động tốt nghiệp văn hoá cấp III tại các trường bổ túc văn hoá tập trung và tại chức. Thường xuyên tuyên truyền thời sự, chính sách, thông báo kịp thời tin chiến thắng trong chiến đấu và xây dựng của tỉnh, của cả nước tới công nhân, viên chức, lao động. Việc tổ chức cho công nhân, viên chức học tập các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, luôn được các cấp công đoàn coi trọng. Các sáng tác tự biên, các buổi biểu diễn của các đội văn nghệ quần chúng nhằm biểu dương người tốt, việc tốt được chú ý. Hoạt động truyền thanh, tủ sách, thư viện, sinh hoạt của các câu lạc bộ được đẩy mạnh. Đội chiếu bóng quốc doanh thường xuyên đến với công nhân lao động vùng sâu, vùng xa. Hoạt động thể dục, thể thao thành phong trào quần chúng có nền nếp. Các môn thể thao, bóng bàn, bóng chuyền, cầu lông, điền kinh, thể thao quốc phòng vẫn được tập luyện đều đặn ở cơ sở và Liên hiệp công đoàn tổ chức thi đấu trong CNVCLĐ.

Trải qua những năm chiến đấu, bảo vệ biên giới, đội ngũ CNVCLĐ Liên hiệp công đoàn Hà-Tuyên đã có những cống hiến quan trọng, đây là thời kỳ thể hiện bản chất cách mạng của công nhân, viên chức, thời kỳ đội ngũ công nhân, viên chức và tổ chức công đoàn trong tỉnh hoạt động sôi nổi, trưởng thành rõ rệt. Đội ngũ CNVCLĐ tăng từ 62.000 người năm 1979 lên 62.855 người năm 1983, số đoàn viên từ 48.000 người, tăng lên 55.455người, 1.170 tổ công đoàn và gần 3 vạn đoàn viên đạt loại khá. Hàng trăm đơn vị, cơ quan, xí nghiệp và cá nhân đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động và Huân chương Chiến công. Nhiều đơn vị cá nhân được Chính phủ tặng bằng khen, cờ thưởng, 1.274 đơn vị và cá nhân được công đoàn khen thưởng, 7 người được cấp bằng lao động sáng tạo, 420 tổ lao động xã hội chủ nghĩa và 857 chiến sỹ thi đua được công nhận trong năm 1984.

Những thành tích trên càng thể hiện đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và Tổ chức công đoàn Hà-Tuyên thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ tịch “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” dám vượt qua mọi hy sinh, gian khổ, góp phần cùng với quân và dân các dân tộc trong tỉnh đánh thắng chiến tranh xâm lược của bọn phản động, bảo vệ chủ quyền quốc gia và an ninh biên giới, góp phần tô thắm thêm truyền thống cách mạng kiên cường, truyền thống cách mạng của GCCN và tổ chức công đoàn cả nước.

4. Phong trào Công nhân, công đoàn Tuyên Quang(Hà-Tuyên) trong thực hiện kế hoạch 5 năm (1981-1985)

Với những thành công trong nỗ lực phấn đấu hoàn thành các mục tiêu cơ bản của kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ 2 (1976-1980), đội ngũ CNVCLĐ và công đoàn đã làm được nhiều việc có kết quả thiết thực, góp phần cùng quân và dân trong tỉnh thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Đảng, nhà nước. Trong không khí đó, Đại hội đại biểu Công đoàn tỉnh Hà Tuyên lần thứ II được tiến hành từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 12 năm 1980. Về dự Đại hội có 252 đại biểu thay mặt cho 51.522 đoàn viên. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ, mục tiêu của phong trào công nhân, hoạt động công đoàn nhiệm kỳ 1980 - 1985, Đại hội bầu ra Ban chấp hành gồm 39 đồng chí, Đồng chí Nguyễn Hữu Chính được bầu làm Thư ký, Đồng chí Hoàng Đức Cường – làm Phó thư ký Liên hiệp công đoàn Hà-Tuyên. Thành công của đại hội đã cổ vũ phong trào công nhân, viên chức thi đua hoàn thành kế hoạch Nhà nước 5 năm 1981-1985.

Trong 5 năm (1981 -1985) là thời kỳ có nhiều khó khăn, nhiều thử thách rất lớn đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của cả nước. Tuy nhiên đã báo hiệu những khả năng phát triển mới như nền công nghiệp của tỉnh nhà đã dần dần khắc phục được sự giảm sút. Toàn tỉnh đã có nhiều công trình, trong đó có hàng chục công trình lớn được xây dựng và đưa vào sản xuất làm tăng thêm năng lực sản xuất như cụm nhiệt điện 400KVA ở thị xã Hà Giang, xây dựng mới 129 km đường ô tô…Trong 5 năm đó công nhân, viên chức, lao động toàn tỉnh đã có 1.556 sáng kiến cải tiến kỹ thuật, làm lợi 9.504.300đồng. Nhiều chính sách mới về kinh tế, đời sống đã được đưa vào cuộc sống. Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành các Quyết định 25/CP, 26/CP, 46/CP nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong sản xuất kinh doanh, cải tiến cơ chế quản lý, mở rộng các chính sách về đòn bẩy kinh tế, tạo điều kiện cho công nhân, viên chức phát huy quyền làm chủ tập thể, khai thác mọi tiềm năng trong sản xuất, giải quyết kịp thời công ăn việc làm và ổn định đời sống cho người lao động. Các quyết định trên đã coi trong ba lợi ích của nhà nước, của tập thề và của người lao động. Đây chính là yếu tố để kích thích sản xuất, là cơ sở để công đoàn các cấp làm tốt hơn công tác chăm lo, bảo vệ đời sống cho người lao động. Quyết định 25/CP được triển khai đã có 10% số cơ sở sản xuất kinh doanh thực hiện ở các mức độ khác nhau. Công đoàn các cơ sở sản xuất kinh doanh đã tham gia tích cực cùng với chuyên môn xây dựng kế hoạch hàng năm. Toàn tỉnh đã có 60 cơ sở mở được hội nghị công nhân, viên chức và ký kết hợp đồng tập thể, công đoàn cùng chuyên môn chọn các vấn đề trong hợp đồng tập thể đưa ra hội nghị thảo luận và bàn biện pháp thực hiện. Cuối năm các cơ sở mở hội nghị công nhân, viên chức đợt 2 kiểm điểm việc thực hiện hợp đồng tập thể và bàn biện pháp phấn đấu hoàn thành kế hoạch năm, các cấp công đoàn đã hướng hoạt động vào những nội dung kinh tế kỹ thuật, góp phần thúc đẩy các phong trào thi đua lao động sản xuất. Năm 1981 tuy có nhiều khó khăn nhưng thông qua các biện pháp như: Mở hội nghị chuyên đề, mời những công nhân kỹ thuật giỏi cùng cán bộ khoa học kỹ thuật trao đổi để giải quyết những khâu yếu trong kỹ thuật, thiết bị và chất lượng sản phẩm. Nhờ đó phong trào thi đua lao động sản xuất trong công nhân, viên chức được giữ vững và có những bước phát triển. Chỉ tính riêng phong trào thi đua vượt mức kế hoạch Nhà nước đã có 50 cơ sở tham gia. Các công đoàn ngành, huyện, thị xã và cơ sở đều có những hình thức thi đua phong phú, thi đua được tổ chức thành từng đợt, từng chiến dịch, thời gian, tập trung vào những khâu, những mặt còn yếu.

Năm 1982 trong đợt thi đua lập nhiều thành tích chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã có 90 cơ sở sản xuất kinh doanh hoàn thành kế hoạch, tăng hơn 2 lần so với năm 1981. Trong đó có 40 cơ sở về trước kế hoạch từ 5 đến 40 ngày. Qua phong trào thi đua, một số xí nghiệp trước đây yếu kém không hoàn thành kế hoạch nay đã vươn lên khá, đạt các chỉ tiêu nhà nước đề ra.

Năm 1983, mặc dù sản xuất công nghiệp vẫn còn khó khăn như thiếu vật tư, nhiên liệu cộng với thiên tai, địch hoạ, nhưng với tinh thần dám nghĩ, dám làm, chủ động lo chạy vật tư nguyên liệu, phong trào thi đua hoàn thành kế hoạch Nhà nước được duy trì, hàng chục sản phẩm mới như đất đèn, lúa cao sản, lúa cạn được sản xuất thành công. Năm 1983 đã có 32 cơ sở hoàn thành kế hoạch trước thời gian là 80 ngày so với năm 1982, thời gian về trước kế hoạch gấp 2,5 đến 3 lần so với năm 1982. Tình trạng “đầu năm đủng đỉnh cuối năm vội vàng” đã được khắc phục ở nhiều nhà máy xí nghiệp. Chào mừng Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ V và Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà-Tuyên lần thứ III, đã có 19 công trình hoàn thành được mang tên Đại hội. Phong trào lao động công ích góp tiền xây dựng tuyến phòng thủ biên giới được công nhân, viên chức hưởng ứng tích cực, đến cuối năm 1983 đã có 14 công đoàn huyện, thị xã, đóng góp được 4.053.476 đồng để hỗ trợ các huyện biên giới.

Ngày 25 tháng 7 năm 1983 Đại hội đại biểu Công đoàn Hà-Tuyên lần thứ III đã khai mạc tại hội trường nhà nghỉ Nông Tiến. Về dự đại hội có gần 300 đại biểu thay mặt cho gần 5,5 vạn đoàn viên. Sau khi phân tích và đánh giá những mặt mạnh cùng những hạn chế của phong trào công nhân, viên chức trong tỉnh, Đại hội đã chỉ ra 3 mục tiêu chính trong những năm 1983-1985.

Một là: Tổ chức, giáo dục, vận động công nhân, viên chức phát huy bản chất cách mạng kiên cường của giai cấp công nhân, tinh thần và năng lực là chủ yếu và tiềm năng trong công nhân, viên chức, lao động phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế, xã hội do Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III đề ra.

Hai là: Giáo dục động viên công nhân, viên chức làm mọi việc cần thiết góp phần bảo vệ vững chắc biên giới của Tổ quốc; trước mắt đóng góp sức người, sức của xây dựng tuyến phòng thủ ở các huyện biên giới.

Ba là: Thông qua phong trào hành động cách mạng để rèn luyện, xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức Hà-Tuyên và các cấp công đoàn vững mạnh, góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh cả về số lượng và chất lượng.

Sau 5 ngày làm việc Đại hội đã thành công tốt đẹp, đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Công đoàn có 43 đồng chí, Ban thường vụ 11 đồng chí, đồng chí Nguyễn Hữu Chính được bầu làm Thư ký; Hoàng Đức Cường làm Phó Thư ký Liên hiệp công đoàn Hà - Tuyên.

Từ sau Đại hội công đoàn Hà-Tuyên lần thứ III, các cấp công đoàn đã tổ chức nhiều phong trào thi đua lao động sản xuất, trong đó nổi bật là phong trào hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước năm 1984 - 1985, hai năm cuối cùng của kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ 3. Để mở rộng phong trào này, Liên hiệp Công đoàn đã triển khai nhiều hoạt động như: mở hội nghị công nhân, viên chức xây dựng kế hoạch, đăng ký lao động giỏi, tổ chức ôn luyện tay nghề, thi thợ giỏi ở nhiều cơ sở. Năm 1984 có 100% các khối ngành, huyện, thị đăng ký giao ước thi đua, 70% cơ sở sản xuất kinh doanh và hành chính sự nghiệp đã mở được hội nghị công nhân, viên chức. Nội dung các hội nghị công nhân, viên chức phần lớn hướng vào việc khai thác tiềm năng của cơ sở nhằm tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, đời sống, chiến đấu phục vụ chiến đấu. Phong trào thi đua mang những nội dung ngày càng phong phú, ngành Giao thông vận tải có phong trào “hàng cho quốc phòng và vùng cao biên giới” đã chuyển được 750 tấn hàng cho quốc phòng, các hàng hoá phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống, tăng gấp 3 lần so với năm 1983. Ngành Văn hoá có phong trào “Sách cho điểm tựa”. Công đoàn ngành điện lực có phong trào “giữ cho dòng điện liên tục", các lâm trường ở huyện Chiêm Hoá, Na Hang… có phong trào chuyển 20.000 cây gỗ cho bộ đội củng cố phòng tuyến biên giới.

Cùng với phong trào thi đua hoàn thành kế hoạch, còn có phong trào ủng hộ bộ đội và nhân dân vùng biên giới được hàng triệu đồng. Phong trào “ngày công biên giới” đã có hàng vạn công nhân, viên chức hướng ứng với số tiền thu được là 500 ngàn đồng, hàng chục km đường hào chiến đấu trên các sườn núi dọc hai bên đường quốc lộ số 2 được nhân dân và cán bộ, công nhân, viên chức góp công nhanh chóng hoàn thành.

Phong trào thi đua “năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều” đã phát huy tác dụng tích cực trong sản xuất; 30 sáng kiến được công nhận năm 1984 đã làm lợi cho Nhà nước 1.413.300đồng, 8 công nhân viên chức có nhiều sáng kiến có giá trị được Tổng công đoàn VN cấp bằng Lao động sáng tạo.

Năm 1984, lần đầu tiên GCCN và tổ chức công đoàn việt nam. Kỷ niệm 55 ngày thành lập Công đoàn cách mạng Việt Nam (28/7/1929 - 28/7/1984). Nhân dịp này Liên hiệp Công đoàn Hà-Tuyên đã phát động đợt thi đua sôi nổi, rộng khắp. Kết quả đã có 80 cơ sở sản xuất kinh doanh hoàn thành kế hoạch Nhà nước trước thời hạn.

Bước sang năm 1985 năm cuối cùng của kế hoạch Nhà nước 5 năm, thực hiện các Nghị quyết của Đảng, chủ trương của nhà nước bước đầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xoá bỏ quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Liên hiệp công đoàn Hà-Tuyên đã tổ chức nhiều lớp tập huấn cho cán bộ công đoàn, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, nhà nước. Đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp, các cấp công đoàn tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua phục vụ nông nghiệp, trước mắt là giải quyết cơ bản lương thực, thực phẩm cho đời sống nhân dân Tháng 8 năm 1985 Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng các lực lượng vũ trang” cho quân và dân Hà-Tuyên. Sự kiện chính trị này đã thúc đẩy phong trào thi đua hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước có những chuyển biến mới. Kết quả là công nhân, viên chức, lao động đã có 637 sáng kiến, 60 cơ sở đạt kế hoạch giá trị kinh tế đề ra. Trong đó 10 cơ sở về trước kế hoạch từ 15 đến 30 ngày, tiêu biểu như Công ty cầu đường I, Lâm trường Cầu Ham, Lâm trường Trần Phú, nhà máy xi măng Tuyên-Quang.

Phong trào thi đua hoàn thành kế hoạch Nhà nước và cuộc vận động công nhân, viên chức, lao động thực hành tiết kiệm cũng có những nét nổi bật. Để phong trào thực sự đi vào chiều sâu và thu được kết quả, ở một số nhà máy, xí nghiệp đã thành lập các ban chỉ đạo, định ra được những khâu vận động tiết kiệm. Mục tiêu, cách làm được công đoàn giao cho các tổ, bộ phận sản xuất để công nhân, viên chức thảo luận và xây dựng kế hoạch. Các cấp công đoàn cùng chính quyền phát động công nhân, viên chức tập trung thi đua tiết kiệm vật tư, thu hồi phế liệu, phế phẩm và phụ tùng thiết bị, kết quả đã có 42 cơ sở đã tiết kiệm được 1.052.230 đồng. Nội dung tiết kiệm chú ý đến việc tận dụng vật tư, nguyên liệu, chuyển hướng sản xuất mặt hàng mới, phục vụ sản xuất  cho vùng cao. Với tư cách là thành viên của Hội đồng thi đua, Liên hiệp công đoàn đã tích cực tham gia xây dựng, xét duyệt kế hoạch sản xuất của các ngành, các nhà máy, xí nghiệp trọng điểm. Qua đó phát huy quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh cũng như nâng cao lợi ích của người lao động.

Phong trào thi đua phục vụ nông nghiệp của công nhân, viên chức vẫn được coi là nhiệm vụ quan trọng của hoạt đồng công đoàn. Liên hiệp Công đoàn tỉnh quan tâm tổ chức và chỉ đạo sát sao phong trào này. Công đoàn huyện, thị xã bám sát các Nghị quyết của cấp uỷ đảng, phối hợp chặt chẽ với các ban nông nghiệp thành lập các ban chỉ đạo thực hiện thí điểm Chỉ thị 100/CT-TW của Ban bí thư và 01 của Tỉnh uỷ về việc khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, các cấp Công đoàn còn tổ chức cho cán bộ, công nhân xuống giúp các hợp tác xã lúc thời vụ khẩn trương. Phong trào liên kết thi đua giữa 3 ngành: Nông nghiệp, Thuỷ lợi, Công nghiệp trong năm 1982 đã góp phần phục vụ tốt hơn cho sản xuất nông nghiệp. Vật tư cho nông nghiệp được chuyển thẳng đến các hợp tác xã không qua khâu trung gian. Diện tích cày máy đạt 100% kế hoạch, tưới nước vụ đông xuân được 16.142 ha tăng hơn cùng kỳ 294 ha, vụ mùa được 35.092 ha. Công đoàn ngành Nông nghiệp đã tổ chức đầu tư khoa học kỹ thuật trồng thử cây thầu dầu, cây dâu tằm; công đoàn ngành Thuỷ lợi đầu tư các huyện trọng điểm tổ chức tưới thực nghiệm mỗi huyện 5 ha; Ngành Công nghiệp xây dựng được quy trình và đưa vào sản xuất cuốc, liềm, mũi cày cải tiến cho vùng cao.

Để đạt mục tiêu 24,5 vạn tấn lương thực, phong trào phục vụ nông nghiệp của công nhân, viên chức trong tỉnh tập trung vào 3 khâu chủ yếu  là: Về thuỷ lợi nhỏ phát triển mạnh, đã huy động 381.000 ngày công tu sửa, nạo vét 189 phai đập, sửa chữa 504 công trình lớn nhỏ, đưa 26 công trình nhà nước đầu tư vào sử dụng, đảm bảo nước tưới vụ đông xuân vượt 4,1% kế hoạch vụ mùa vượt 4,6% so vụ mùa 1982, các cánh đồng cao sản có diện tích hơn 700 ha, có 4/26 trạm thuỷ nông đạt 4 tiêu chuẩn thi đua với trạm thuỷ nông Cầu Ghẽ. Về quản lý, song song với việc tiếp tục mở rộng khoán theo Chỉ thị 100, đã kịp thời uốn nắn những lệch lạc trong sản xuất nông nghiệp. Tất cả những việc đó đã đưa năng suất lúa bình quân cả năm đạt 48 tạ/ha/vụ, riêng lạc tăng 90%.

Năm 1984 bằng các nguồn vốn định canh, định cư, kinh tế mới đã khai hoang mở rộng diện tích được 772ha, đưa 57 công trình vào sử dụng, trong đó có 7 cầu treo có tổng chiều dài 430m cho phát triển nông thôn. Tính đến nay, toàn tỉnh đã có 72% xã vùng thấp, 56% xã vùng cao có đường ô tô đi qua góp phần tích cực vào việc lưu thông hàng hoá, vật tư nông nghiệp phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Phong trào xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh, tuy mới thực hiện thí điểm đã thu được kết quả. Năm 1984 có 7 cơ sở được công nhận công đoàn cơ sở vững mạnh, năm 1985 đã có 16 công đoàn cơ sở được công nhận công đoàn cơ sở vững mạnh, tăng hơn 2 lần so với năm trước. Nhìn chung từ năm 1981 đến 1985 tuy rất khó khăn, song với nỗ lực, phấn đấu của mình, phong trào công nhân, viên chức trong tỉnh đã đạt nhiều kết quả. Được Hội đồng Bộ trưởng tặng thưởng nhiều Huân chương, cờ, bằng khen, có 1964 tổ đội đạt danh hiệu lao động xã hội chủ nghĩa và 3172 công nhân, viên chức được công nhận là chiến sỹ thi đua, trong đó có sự đóng góp tích cực, hiệu quả của 14.496 cán bộ công đoàn bán chuyên trách và 296 cán bộ chuyên trách công đoàn.

Để khắc phục khó khăn về đời sống, một mặt các cấp công đoàn trong tỉnh chủ động cùng chuyên môn tìm kiếm việc làm, mở rộng sản xuất phụ. Nhờ vậy phần lớn lao động dôi ra khỏi dây chuyền sản xuất hoặc thiếu việc làm vẫn có thu nhập; mặt khác nhiều công đoàn cơ sở đã thể hiện vai trò của mình trong việc phối hợp với chuyên môn thực hiện trả lương theo sản phẩm. Sáu tháng đầu năm 1984 đã có 100% cơ sở đã áp dụng hình thức này cho 70% công nhân hưởng lương khoán, một số xí nghiệp của Trung ương có tới 90% công nhân nhận lương khoán. Việc khuyến khích 3 lợi ích cũng được các cấp công đoàn coi trọng như ngành Công nghiệp, Giao thông, Nông nghiệp. Điển hình là đội sản xuất thuộc nông trường Hùng An tăng 8 tấn chè một ngày công lao động so với cùng kỳ năm trước; ngày công thực hiện từ 21 lên 25 công, lương tăng từ 71 đồng lên 125 đồng/tháng. Năm 1983 đã có 80% công việc được khoán đến người lao động.

Theo phương thức phân phối mới, các cấp Công đoàn tỉnh đã góp phần nâng cao thu nhập thực tế của người lao động từ 20 đến 50%. Thực hiện Nghị định 218/CP, 220/CP của Hội đồng Chính phủ, các cấp Công đoàn Hà Tuyên đã tham gia tích cực với các ngành  thực hiện tốt lưu thông phân phối, mở thêm các điểm bán hàng lương thực, thực phẩm ở những nơi tập trung cán bộ, công nhân, viên chức, hay tổ chức các ban đời sống ở các cơ quan, xí nghiệp hoặc định kỳ đưa hàng vào phục vụ công nhân, viên chức. Việc làm đó của công đoàn đã giúp cho công nhân, viên chức đảm bảo được thời gian sản xuất và mua hết các tiêu chuẩn được cung cấp. Bữa ăn ca 3 cho công nhân, viên chức cũng được công đoàn cùng chuyên môn chăm lo chu đáo, đảm bảo sức khoẻ cho công nhân, viên chức, lao động.

Công tác tăng gia cũng được các cấp công đoàn, nhất là các công đoàn cơ sở tổ chức triển khai có hiệu quả. Tính chung trong 3 năm (1980-1982) công nhân, viên chức đã tăng gia sản xuất được 14.718 tấn lương thực, 5.369 tấn thực phẩm khác và rau xanh các loại 9369 tấn. Năm 1983, việc tăng gia vẫn đạt khá, bình quân 50kg lương thực quy thóc/người, bò, lợn tăng nhiều so với năm trước. Bước sang năm 1984 theo thống kê ngành Nông, Lâm nghiệp tăng gia được 600 tân lương thực, bình quân 30 kg/người, ngoài ra còn có 600 trâu, bò sinh sản trong đó có 400 con là của gia đình công nhân. Nhiều cơ quan, xí nghiệp có đàn bò, ao cá tập thể góp phần cải thiện đời sống hàng ngày cho người lao động.

Việc tổ chức và động viên công nhân, viên chức phát triển kinh tế gia đình theo chỉ thị 35/CT của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã được Liên hiệp Công đoàn tỉnh hướng dẫn các cơ sở nhanh chóng mở rộng. Năm 1985, Liên hiệp Công đoàn tỉnh cùng Ban Kinh tế Tỉnh uỷ và các ngành lương thực, thương nghiệp, nông nghiệp và tài chính kiểm tra, khảo sát ở 15 cơ sở. Kết quả cho thấy các cơ sở đều tự cân đối được một phần thịt và lượng thực, thu nhập thêm bằng 60% so với lương cơ bản

Hoạt động bảo hiểm xã hội của các cấp công đoàn là một trong những nội dung đảm bảo lợi ích cơ bản của người lao động. Thể hiện rõ chức năng của mình, công đoàn các cấp đã có những hoạt động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng để thực hiện tốt chế độ bảo hiểm xã hội. Từ những năm 1981 - 1985, công tác này đã đi vào chiều sâu và có nhiều tiến bộ, các chế độ nghỉ ngơi dưỡng sức được các cấp công đoàn thực hiện chu đáo. Năm 1984, các cấp công đoàn đã xét trợ cấp khó khăn cho 1.556 người với số tiền 714.360 đồng. Trong 3 năm (1983 – 1985) đã có 3.196 lượt người được nghỉ dưỡng tại nhà nghỉ Nông tiến. Ngoài ra Bảo hiểm xã hội còn tổ chức bồi dưỡng ngoại trú cho 200 đồng chí cán bộ chủ chốt trong diện bảo vệ sức khoẻ của tỉnh nhà.

Công tác vệ sinh an toàn lao động được duy trì và có những chuyển biến đáng kể. Năm 1984 ban chỉ đạo đã tổ chức hội nghị tổng kết 3 năm (1981-1983) theo Thông tư 08 về mở hội nghị an toàn vệ sinh viên xuất sắc. Kết quả ở 24 cơ sở trong tỉnh đã có 40% đạt yêu cầu. Mạng lưới an toàn viên thường xuyên được bồi dưỡng những kiến thức cơ bản nên hoạt động thiết thực hơn, có 61% hoạt động khá, nhiều tập thể được khen thưởng. Tuy nhiên công tác này cũng còn có hạn chế như: quan tâm chưa đầy đủ, thường xuyên đến công tác tuyên truyền, giáo dục, huấn luyện về quy phạm an toàn cho công nhân; nhiều công đoàn cơ sở sản xuất kinh doanh chưa thấy đầy đủ tầm quan trọng và sự bức thiết của công tác bảo hộ lao động.

Trong những năm 1981-1985, công tác giáo dục chính trị tư tưởng được các cấp công đoàn thường xuyên coi trọng. Các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ, Tổng Công đoàn và của Tỉnh uỷ được giới thiệu tới tất cả công nhân, viên chức nhất là công nhân, viên chức, lao động vùng sâu vùng xa. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tổ chức những ngày kỷ niệm lớn trong hai năm 1984-1985; Chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và Ban Thư ký Tổng Công đoàn Việt Nam về kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam. Công đoàn các cấp đã có nhiều hình thức hoạt động phong phú để kỷ niệm như: học tập, mạn đàm, mít tinh, thể thao, văn nghệ… Kết quả có 100% công đoàn cơ sở tham gia, 70% tổ công đoàn và đoàn viên tham gia học tập và hiểu rõ ý nghĩa các ngày kỷ niệm lớn. Nhân ngày lễ kỷ niệm 55 năm thành lập Công đoàn Việt Nam, Liên hiệp Công đoàn đã trao tặng 210 bằng khen cho các đồng chí cán bộ công đoàn có thành tích xuất sắc.

Thực hiện Chỉ thị 18 của Tổng Công đoàn Việt Nam Nghị quyết 24 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, đặc biệt là việc thực hiện Nghị quyết VIII của Trung ương về giá - lương - tiền, Liên hiệp Công đoàn đã biên soạn đề cương, kế hoạch thực hiện, tập huấn cán bộ theo dõi chỉ đạo, sơ kết rút kinh nghiệm. Riêng về tập huấn đã có 205 đồng chí cán bộ chủ chốt các công đoàn cơ sở về dự. Ngoài nội dung Nghị quyết VIII  của Trung ương, còn tập huấn về xây dựng hệ thống định mức, giá thành, giá cả giúp cho các đồng chí ở cơ sở có căn cứ tham gia với chuyên môn. Tính chung đã có trên 80% công nhân, viên chức được phổ biến tinh thần Nghị quyết VIII và các chính sách cụ thể khác. Nhờ có sơ kết rút kinh nghiệm kịp thời, Liên hiệp Công đoàn đã tham gia với Uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết định 705 về giao quyền sản xuất kinh doanh cho cơ sở, quyết định này đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và phát huy quyền tự chủ của các doanh nghiệp.

Tháng 8 năm 1985 Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân cho quân và dân Hà Tuyên. Nhân sự kiện vẻ vang này, Tỉnh uỷ đã có Chỉ thị 14 về tổ chức đợt sinh hoạt chính trị. Trong đoàn thể nhân dân. Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã có hướng dẫn các cơ sở tổ chức đợt sinh hoạt chính trị quan trọng này, kết quả đã có 49.000 công nhân, viên chức tham gia. Tiêu biểu như Ngân hàng tỉnh có 100% số cơ sở và 93% số công nhân, viên chức dự đợt báo công, tự phê bình và phê bình.

Được sự quan tâm của Lãnh đạo Liên hiệp công đoàn, công tác tuyên giáo của công đoàn được bổ sung kiện toàn thêm một bước, Ban Tuyên giáo Liên hiệp Công đoàn tỉnh cũng được tăng cường thêm cán bộ và phương tiện hoạt động. Nhờ vậy mà hoạt động tuyên giáo của Công đoàn đã có nhiều kết quả, nhất là việc giáo dục, bồi dưỡng cho Công đoàn cấp cơ sở. Trong 5 năm (1981-1985) đã bồi dưỡng, huấn luyện được 7.835 cán bộ công đoàn từ tổ phó trở lên, đào tạo dài hạn 141 cán bộ Công đoàn.

Phong trào nữ công nhân, viên chức. Năm 1982-1983 toàn tỉnh có 4.759 tổ, nhóm nữ công, 320 ban nữ công ngành và cơ sở, tích cực hoạt động. Trong phong trào "người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch nhiều cơ sở phấn đấu tốt như: Lâm trường Vĩnh Hảo tỷ lệ đặt vòng tránh thai đạt 60%, ngành Giáo dục có 505 chị có 2 con thực hiện không sinh con thứ 3.. Phong trào xây dựng gia đình văn hoá mới chỉ tính ở 7 ngành, 6 huyện, thị đã có 9.863 gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá mới; khu tập thể văn minh tăng từ 27 khu lên 123 khu trong đó có 11 khu và 169 gia đình xuất sắc. Từ năm 1981 đến 1985 có hàng vạn nữ công nhân, viên chức đạt danh hiệu lao động tiên tiến và người phụ nữ mới mỗi năm, 109 chị là phụ nữ tài năng cấp Trung ương, 114 chị được tặng Huy chương vì sự nghiệp xây dựng tổ chức Công đoàn và 19 chị được tặng Huy chương vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ.

Sinh hoạt câu lạc bộ thư viện được duy trì, các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao phát triển ở nhiều công đoàn cơ sở. Toàn tỉnh có 1.000 đội bóng chuyền nam, nữ, bóng đá, bắn súng, duy trì thường xuyên 3 giải truyền thống là Bóng chuyền B1, B2 và bắn súng. Giải bắn súng khu vực 6 tỉnh phía Bắc, đội tuyển của công đoàn Tỉnh Hà Tuyên năm nào cũng được tuyển chọn, tập huấn và dự giải, năm 1985 đội được giải nhì khu vực. Tổng kết phong trào thể dục, thể thao 5 năm (1981-1985) của Hà Tuyên đã có 32 đơn vị và 52 cá nhân tiên tiến, Tổng Công đoàn Việt Nam khen 1 đơn vị, 2 cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào thể dục, thể thao toàn quốc. Từ năm 1980 đến năm 1985 trong các ngày lễ lớn, đã có 6 huyện, thị, 6 ngành tổ chức được hội diện công, nông, binh. Hội diễn ở các ngành còn lựa chọn được các đội tiêu biểu đi dự hội diễn ngành dọc toàn quốc giành được nhiều Huy chương bạc, vàng.

Trong dịp chào mừng đất nước 40 năm ngày thành lập nước (2/9/1945-2/9/1985), Liên hiệp Công đoàn tỉnh phối hợp với Sở Văn hoá, Tỉnh Đoàn thanh niên tổ chức liên hoan “Tiếng hát Tân Trào” 1 với 24 đoàn, 300 diễn viên, 250 tiết mục tham gia. Trong đó có nhiều tiết mục tự biên, tự diễn với các thể loại: ca, múa, độc tấu, thơ. Toàn tỉnh đã có 1.000 tổ, đội văn nghệ quần chúng nằm ở các công đoàn cơ sở từ vùng thấp đến vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Mạng lưới truyền thanh, thông tin, chiếu bóng được duy trì, phát triển. Năm 1985 có 354 đài, trạm, điểm truyền thanh có tổng công suất 10.800w, 4.352 loa lớn nhỏ, 395km đường dây, 250 vô tuyến và nhiều phương tiện hoạt động khác. Ngoài việc tiếp sóng đài trung ương, tỉnh, các cơ sở còn có chương trình riêng, như các Nông trường ở huyện Hàm Yên đã xây dựng được chương trình phát thanh hàng ngày bổ ích và hấp dẫn; 33 đội thông tin lưu động ở các huyện, thị, lực lượng vũ trang và một số xã biên giới; 36 đội chiếu bóng trong đó có 7 đội của các nhà máy, xí nghiệp lớn và 1 đội của Liên hiệp Công đoàn tỉnh thường xuyên hoạt động. Bình quân hàng năm công nhân, viên chức được xem 20 lượt/người/năm về các loại hình văn hoá nghệ thuật. Trong 4 năm (1983-1986) báo các loại được phát hành vào khu vực công nhân viên chức là 13.825.884 số, tạp chí các loại 275.937 số, sách các loại 240.000 bản. Bình quân 55 công nhân có 1 tờ báo, mỗi công nhân có 1 tạp chí và 1 cuốn sách.

Hàng năm, ngành Văn hoá thông tin thể dục thể thao đã ưu tiên từ 60-70% văn hoá phẩm, các loại nhạc cụ, dụng cụ thể dục, thể thao cho khối công nhân viên chức. Cùng với sự cố gắng của cơ sở trong việc xây dựng cơ sở vật chất như: sân bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, bãi chiếu bóng, sân khấu biểu diễn văn nghệ bước đầu đã hình thành đồng bộ thiết chế văn hoá, thể thao ở cơ sở.

Tuy nhiên, công tác tuyên truyền giáo dục của công đoàn còn có những hạn chế, như: Một số công đoàn cơ sở chưa nắm bắt kịp thời những diễn biến tư tưởng trong quần chúng để phản ánh với cấp uỷ Đảng và công đoàn, có nơi còn né tránh, không tích cực đấu tranh phê phán các biểu hiện tiêu cực. Hình thức và phương pháp tuyên truyền còn đơn điệu, khô khan. Các hoạt động câu lạc bộ, thư viện, tủ sách, giáo dục truyền thống có chiều hướng giảm sút, công tác bổ túc văn hoá và bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ còn yếu. Trang thiết bị cho hoạt động văn hoá, thể thao mới đáp ứng một phần cho cơ sở.

Thời gian 10 năm sau khi đất nước thống nhất (1975-1985) dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ đội ngũ công nhân viên chức và tổ chức Công đoàn Hà Tuyên đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang góp phần làm cho tình hình kinh tế xã hội của tỉnh có những chuyển biến rõ rệt, nhiều cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng, quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa được củng cố, phát triển. Hà-Tuyên đã hình thành các xí nghiệp công nghiệp phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng. Đặc biệt, công nhân, viên chức và Công đoàn Hà-Tuyên đã vượt qua mọi gian khổ, hy sinh góp phần đánh thắng chiến tranh xâm lược của bọn phản động, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Trong 10 năm nhân dân các dân tộc Hà-Tuyên đã giành được nhiều thành tựu như công nghiệp đã phát triển một bước, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp làm cho sản lượng lương thực của tỉnh ngày một tăng cao và vững chắc. Sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế phát triển nhanh, tạo thành hệ thống từ tỉnh đến cơ sở. Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật có trình độ đại học là 3.202 người, 10.484 người có trình độ trung cấp và gần 20.000 công nhân kỹ thuật. Từ phong trào thi đua yêu nước các chức năng của công đoàn đã thể hiện nổi bật qua quá trình tổ chức, giáo dục, động viên hàng vạn công nhân viên chức sản xuất, chiến đấu, góp phần thực hiện các kế hoạch kinh tế xây dựng Tỉnh nhà.

II. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang (Hà-Tuyên) trong những năm thực hiện sự nghiệp đổi mới (1986-1995).

1. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang (Hà-Tuyên) trong kế hoạch 5 năm (1986- 1990)

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986), Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới, nhằm đưa đất nước vượt qua khó khăn thử thách, xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội. Đảng chủ trương đổi mới về tư duy, trước hết là tư duy kinh tế với 3 chương trình kinh tế lớn là: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu để giải quyết những nhu cầu cấp bách và tạo cơ sở về mọi mặt cho sự phát triển của đất nước.

Là một tỉnh nghèo lại chịu hậu quả của chính sách bao vây, cấm vận cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, nên Tuyên Quang gặp nhiều khó khăn gay gắt, lạm phát nghiêm trọng và kéo dài, giá cả tăng đột biến, tình hình cung ứng vật tư kỹ thuật, tiền vốn và 6 mặt hàng thiết yếu cho CNVC vừa thiếu, chậm vừa kém chất lượng làm cho sản xuất đình đốn, đời sống CNVC rất khó khăn, tiêu cực xã hội có mặt nảy sinh nghiêm trọng. Nhiều điểm dân cư, công sở, xí nghiệp vẫn bị pháo kích, các điểm cao vẫn bị lấn chiếm, các hoạt động xâm nhập biên giới để phá hoại, xâm canh, xâm cư, chiến tranh tâm lý, di dời cột mốc… vẫn thường xuyên diễn ra. Do vậy nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu, củng cố tuyến phòng thủ biên giới vẫn là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của công nhân, viên chức, lao động và nhân dân các dân tộc trong Tỉnh.

Bước vào thời kỳ mới, Đảng bộ và nhân dân Hà Tuyên phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là vừa đổi mới xây dựng quê hương, vừa phải trực tiếp thực hiện nhiệm vụ củng cố phòng tuyến bảo vệ an ninh Tổ quốc. Thực hiện công cuộc đổi mới thì đội ngũ cán bộ công nhân, viên chức, lao động Tuyên Quang là lực lượng tiên phong đi đầu thực hiện quá trình đổi mới bằng các phong trào thi đua lao động sản xuất và chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI.

Năm 1986, Liên hiệp Công đoàn tỉnh phát động phong trào thi đua lao động sản xuất, lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng các cấp. Phong trào được CNVC hưởng ứng nhiệt tình, nhiều xí nghiệp đã mở Hội nghị công nhân, viên chức bàn biện pháp tháo gỡ khó khăn, giữ vững sản xuất, bố trí việc làm cho hàng ngàn công nhân, viên chức kết quả của phong trào là đã có hàng trăm công trình được hoàn thành làm lợi hàng trăm triệu đồng cho Nhà nước. Trong đó ngành giao thông có 6 công trình, ngành Công nghiệp 4 công trình, Bưu điện 3 công trình, Điện lực 2 công trình… CNVC các huyện, thị đã tổ chức lao động ngoài giờ được hàng vạn ngày công. Đặc biệt có 100% cơ sở sản xuất kinh doanh của tỉnh đã được học tập và triển khai NQ 306 của Bộ Chính trị, Quyết định 705 của UBND tỉnh về sắp xếp lại tổ chức sản xuất, thực hiện quyền chủ động SXKD của các xí nghiệp. Kết quả cuối năm 1986 đã có 70/136 đơn vị SXKD hoàn thành kế hoạch Nhà nước giao, có 20 đơn vị vượt thời gian từ 5 đến 30 ngày.

Năm 1987 phong trào phấn đấu thực hiện 3 chương trình kinh tế của tỉnh, đặc biệt là thực hiện mục tiêu 30 vạn tấn lương thực do Đại hội lần thứ IV tỉnh Đảng bộ đề ra được CNVCLĐ tích cực hưởng ứng. Liên hiệp Công đoàn tỉnh đứng ra tổ chức liên kết thi đua giữa 2 ngành Nông nghiệp và Thuỷ lợi, sau đó tổ chức ký Nghị quyết liên lịch giữa 13 ngành. Thành lập câu lạc bộ giám đốc xí nghiệp có 44 giám đốc tham gia để liên kết trách nhiệm nhằm thực hiện 3 chương trình kinh tế của tỉnh. Kết quả là ngành Nông nghiệp với 3 mũi tiến công (cung ứng vật tư - đầu tư khoa học kỹ thuật - quản lý) đã cung ứng cho sản xuất nông nghiệp 10.025 tấn phân bón, 300 tấn giống cây trồng, 50 tấn ngô giống mới, 400 tấn thức ăn gia súc, 40 tấn thuốc trừ sâu…

Cùng với ngành nông nghiệp, Ngành thủy lợi đã tu sửa, nạo vét 3.626 kênh mương, 850 con đập, vận động nhân dân làm mới 27 công trình thủy lợi với khối lượng 887.600m3, khôi phục 376 công trình thủy lợi bị hư hỏng do lũ lụt năm 1986… Phong trào thi đua ở các ngành như phong trào “Người điện thoại viên giỏi”, “Công nhân phát thư báo tận tuỵ” của ngành Bưu điện, phong trào thi đua “2 giỏi” của ngành Giáo dục đã trở thành lá cờ đầu. Đặc biệt là phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, khắc phục khó khăn trong sản xuất đã có 376 sáng kiến làm lợi hàng triệu đồng. Trong phong trào này đã có 80 công nhân, viên chức được Tổng liên đoàn lao động Việt Nam cấp bằng lao động sáng tạo, cuối năm có 75% đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn Hà Tuyên hoàn thành kế hoạch Nhà nước.

Năm 1988, thực hiện Chỉ thị 45/CT-TLĐ về tổ chức phong trào hành động cách mạng của CNVC lập thành tích chào mừng Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VI, Ban Thường vụ Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã chỉ đạo các cấp Công đoàn tổ chức phong trào thi đua lập thành tích chào mừng sự kiện quan trọng này. Qua phong trào thi đua có đã 66/83 đơn vị sản xuất kinh doanh mở được Hội nghị CNVC, hầu hết đã bầu được hội đồng xí nghiệp, ban thanh tra công nhân, thu thập được hàng ngàn ý kiến, kiến nghị của CNVC về sản xuất và đời sống được các đơn vị xem xét và từng bước giải quyết. Từ sau khi có Quyết định 217/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về phát huy quyền tự chủ của giám đốc xí nghiệp, Liên hiệp công đoàn đã phối hợp với UBND tỉnh tổ chức bồi dưỡng tập huấn cho chủ tịch các huyện, thị, giám đốc, phó giám đốc, thư ký công đoàn, kế toán trưởng các doanh nghiệp Nhà nước về nội dung Quyết định 217 và kế hoạch kinh tế của tỉnh nhà. Trong năm đã có 59 sáng kiến làm lợi 9.629.000đ, đã trích thưởng 3.045.531đ. Tuy vậy, do những khó khăn về vật tư tiền vốn, do chưa thích nghi với cơ chế mới cho nên số cơ sở hoàn thành kế hoạch Nhà nước chưa đạt yêu cầu. Phong trào thi đua xây dựng tổ, đội lao động XHCN chưa đạt chỉ tiêu đề ra vì công tác quản lý, chỉ đạo bị buông lỏng, ban thi đua cấp tỉnh, huyện bị giải thể.

Trong 2 năm 1989-1990, cơ chế quản lý mới ngày càng được hình thành và bước đầu phát huy trong sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, nền kinh tế của tỉnh cũng còn nhiều yếu kém. Biên chế cồng kềnh, thiếu đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, thiếu vốn, thị trường tiêu thụ hàng hoá chưa được mở rộng. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VI, Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã phát động phong trào thi đua chuyển đổi cơ chế quản lý và phong trào thi đua “Lập công dâng Đảng” kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại (1890 - 1990). Từ đây việc tổ chức Đại hội CNVC đã đi vào nền nếp ở hầu hết các đơn vị sản xuất kinh doanh, có một số đơn vị đã mở các cuộc hội nghị chuyên đề nhằm phát huy quyền làm chủ tập thể của CNVC tháo gỡ khó khăn, phát triển sản xuất. Năm 1989, ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đạt 83,39% kế hoạch, trong đó khu vực quốc doanh đạt 100%. Năm 1990, tình hình kinh tế của tỉnh có sự chuyển biến tích cực xuất hiện nhiều cơ sở đứng vững trong cơ chế mới và khẳng định sức sống của cơ chế mới trong đời sống xã hội, các đơn vị sản xuất kinh doanh nhanh chóng chuyển sang cơ chế mới.

Thực hiện Chỉ thị số 15/CT-TU ngày 11/11/1985 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Quyết định 220/QĐ ngày 30/6/1986 của UBND tỉnh, Chỉ thị số 11/CT-TW ngày 23/7/1987 của Ban Bí thư TW về củng cố phòng tuyến biên giới, giữ vững an ninh chính trị trong tình hình mới, cán bộ, công nhân, viên chức, lao động  luôn hướng về nhiệm vụ phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Năm 1986 công nhân, viên chức đã đóng góp hàng vạn ngày công mở đường, tải đạn, lương thực, tập trung hàng trăm xe vận chuyển hàng hoá thiết yếu, xây dựng 200km đường dây điện thoại, làm hàng trăm bể nước cho điểm tựa, ủng hộ hàng triệu đồng cho bộ đội và nhân dân các huyện biên giới.

Năm 1987 - Thực hiện Nghị quyết 01 của Bộ Nội vụ và Tổng Công đoàn Việt Nam, các cấp công đoàn nhất là công đoàn ở các huyện biên giới đã thường xuyên chủ động phối hợp với chính quyền giáo dục nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho công nhân, viên chức, lao động đã có 80% đơn vị hoàn thành công tác huấn luyện tự vệ, 100% đơn vị hoàn thành nhiệm vụ quân sự, tham gia quy hoạch củng cố 33 xã biên giới…. Nổi bật như huyện Xín Mần công nhân, viên chức, lao động đã tích cực góp phần làm xong 27km đường Nà Trì – Yên Bình, phục vụ phòng tuyến biên giới, ngành Bưu điện sửa chữa 38 lần trên 80km đường dây ở các huyện biên giới, ngành Lâm nghiệp xây dựng vận chuyển 10.600m3 bê tông lên xây phòng tuyến… Trong cuộc vận động “vì điểm tựa tiền tiêu” công nhân, viên chức, lao động đã thực hiện gửi tiết kiệm 50đ/người và đóng góp hàng tấn giẻ lau súng, ủng hộ hàng triệu đồng mua hiện vật tặng các chiến sỹ biên giới. Thời gian này, Liên hiệp Công đoàn tỉnh đã tiến hành củng cố, thành lập tổ chức công đoàn các huyện biên giới từ đó vận động CB công nhân, viên chức tham gia phong trào bảo vệ Tổ quốc. Liên hiệp Công đoàn tỉnh đầu tư kinh phí, hỗ trợ 4 huyện biên giới 1.400.000đ, tổ chức tiếp nhận 12.852 áo len, 760 khăn len, 625 chăn len từ Tổng công đoàn Việt Nam về trao cho 8 huyện vùng cao Hà Giang.

Bước sang năm 1989, các hoạt động pháo kích tập kích ở vùng biên giới có giảm, song tình hình biên giới vẫn phức tạp các thế lực phản động vẫn tổ chức các hoạt động phá hoại như: Dùng chính sách tuyên truyền chiến tranh tâm lý, kích động chia rẽ nội bộ, chia rẽ dân tộc… Trước tình hình đó, Tỉnh uỷ đã ra Nghị quyết số 25 đề ra các biện pháp xây dựng và củng cố biên giới. Các cấp công đoàn đã vận động tổ chức cán bộ CNVC triển khai việc củng cố toàn diện vững chắc các huyện biên giới, xây dựng làng xã chiến đấu, xây dựng phòng tuyến an ninh nhân dân vững chắc, gắn với việc xây dựng quy hoạch và phát triển kinh tế của 33 xã biên giới, ổn định dân cư, xây dựng kinh tế. Tỉnh đã đầu tư cho biên giới hơn 1 tỷ đồng để xây dựng phục hoá ruộng nương, xây dựng các công trình thuỷ lợi, trạm xá, trường học, cửa hàng, trụ sở UBND… Tổ chức cho nhân dân các dân tộc học tập Chỉ thị 15 của Tỉnh uỷ về chống chính sách hàng hoá của địch, học tập các quy định về biên giới, phát động các phong trào “4 không”, “kết nghĩa các lực lượng”, “vì điểm tựa tiền tiêu”… Qua đó đã động viên công nhân, viên chức và nhân dân tham gia bảo vệ biên giới, kết quả nhiều cơ sở quần chúng đã phát hiện giúp đỡ chính quyền đấu tranh với những người vượt biên trái phép buôn bán hàng hoá thu giữ nhiều hàng hoá buôn lậu trị giá hàng trăm triệu đồng. Nhiều tên gián điệp, biệt kích, tay sai của địch đã bị quần chúng tố giác và bị trừng trị, góp phần ngăn chặn nhiều vụ xâm nhập của địch.

Từ khi có Thông báo 118 của Ban Bí thư về việc cho phép nhân dân các xã biên giới được phép qua lại biên giới thăm thân nhân, trao đổi hàng hoá. Tình hình biên giới đã có mặt thuận lợi, nhưng cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Các cấp công đoàn đã vận động và giáo dục CNVC thực hiện QĐ số 135/QĐ-UB ngày 9/4/1989 của UBND tỉnh về việc mở 23 điểm của 6/7 huyện biên giới; khôi phục, mở mới một số chợ ở các xã biên giới như Xín Cái (Mèo Vạc), Sà Phìn (Đồng Văn), Bạch Đích (Yên Minh), Bản Máy (Hoàng Su Phì), Xín Mần (Xín Mần)… Những cố gắng đó đã đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi bảo vệ an ninh biên giới, hạn chế các hiện tượng tiêu cực phù hợp quan điểm của Đảng về vấn đề dần dần bình thường hoá quan hệ hai nước Việt – Trung.

Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước, đội ngũ CNVCLĐ và tổ chức công đoàn Tuyên Quang dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Hà Tuyên đã có rất nhiều cố gắng,  bảo vệ vững chắc an ninh biên giới, giữ vững an ninh chính trị và an toàn xã hội. Cùng với nhân dân các dân tộc đội ngũ công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn đã tạo ra sự ổn định chính trị làm điều kiện tiên quyết cho sự thắng lợi của công cuộc đổi mới, góp phần xứng đáng  xây dựng Hà Tuyên giàu mạnh theo cùng với cả nước trong sự nghiệp mới.

Thực hiện chức năng chăm lo và bảo vệ đời sống của cán bộ công nhân, viên chức, lao động trong thời kỳ đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Liên hiệp Công đoàn Hà-Tuyên đã xác định trước hết phải đổi mới công tác tổ chức và cán bộ. Năm 1987, Hội nghị Ban chấp hành Liên hiệp Công đoàn Hà Tuyên (khoá III) kỳ 12 đã ra Nghị quyết về công tác tổ chức cán bộ. Theo đó một số cán bộ cốt cán ở cơ quan Liên hiệp Công đoàn tỉnh, công đoàn thị xã, công tác một số huyện vùng cao được thay đổi. Liên hiệp Công đoàn tỉnh cho chuyển công tác 8 trường hợp, nghỉ chế độ 12 trường hợp… đây là bước đầu chuẩn bị cho Đại hội Công đoàn tỉnh Hà-Tuyên lần thứ IV.

Đại hội lần thứ IV Công đoàn tỉnh Hà Tuyên được tiến hành từ ngày 08 đến 11 tháng 9 năm 1988 tại nhà nghỉ Nông Tiến đã đánh giá kết quả hoạt động công đoàn, về tổ chức và phương thức hoạt động từ sau Đại hội VI của Đảng. Trên cơ sở đó đề ra phương hướng nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn thời kỳ 1988-1993. Đại hội đã bầu BCH gồm 29 đồng chí, đồng chí Bùi Ngọc Quế được bầu làm Thư ký, đồng chí Nông Văn Pinh được bầu làm Phó Thư ký liên hiệp Công đoàn tỉnh Hà-Tuyên. Đây là Đại hội đầu tiên của thời kỳ đổi mới, Đại hội mở đầu việc đổi mới hình thức và nội dung hoạt động công đoàn.

Tháng 10 năm 1988 Đại hội VI Công đoàn Việt Nam được tổ chức tại thủ đô Hà Nội đã xác định nhiệm vụ, mục tiêu của tổ chức công đoàn trong thời kỳ đổi mới là: “Tập hợp giáo dục làm cho CNLĐ hiểu rõ tình hình đất nước, hăng hái đi đầu trong công cuộc đổi mới, góp phần làm chuyển biến tình hình kinh tế xã hội chăm lo đời sống, bảo vệ quyền dân chủ và lợi ích chính đáng của CNLĐ; xây dựng giai cấp công nhân và công đoàn vững mạnh”. Đại hội cho rằng: “Việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội là yêu cầu bức xúc của CNLĐ, là mối quan tâm hàng ngày của các cấp công đoàn”.

Tại Đại hội này, Tổng Công đoàn Việt Nam được đổi tên thành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam các Liên hiệp Công đoàn địa phương được gọi là Liên đoàn Lao động, chức danh Thư ký, Phó Thư ký được gọi là Chủ tịch, phó Chủ tịch công đoàn (từ cấp công đoàn cơ sở trở lên). Sự thay đổi này đánh dấu sự đổi mới về mặt nhận thức của tổ chức công đoàn trong việc xác định nhiệm vụ cũng như đối tượng vận động của tổ chức công đoàn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới cơ chế, quản lý kinh tế, theo hướng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành trong cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước.

Năm 1989 thực hiện chủ trương tinh giảm biên chế, Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) tỉnh Hà Tuyên đã thực hiện một bước sắp xếp lại bộ máy, giảm 3 ban của cơ quan LĐLĐ tỉnh, sáp nhập 3 công đoàn ngành và chuyển 12 công đoàn cơ sở trực thuộc về huyện, thị xã quản lý. Qua sắp xếp đã giảm 30% đầu mối và 25% cán bộ chuyên trách công đoàn, thay đổi 39 cán bộ chủ chốt các cấp công đoàn. Liên đoàn Lao động tỉnh tiến hành phân cấp toàn diện cho LĐLĐ các huyện, thị xã tạo điều kiện để công đoàn cơ sở chủ động trong việc tổ chức thực hiện, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn.

Cùng với việc giảm nhẹ đầu mối, biên chế, LĐLĐ tỉnh còn tập trung đầu tư nâng cao trình độ lý luận nghiệp vụ nhận thức mới cho đội ngũ cán bộ từ tỉnh đến cơ sở. Năm 1986 đã tổ chức tập huấn cho 717 cán bộ công đoàn; năm 1987 tập huấn chuyên đề cho 45 cán bộ chủ chốt, cử 9 cán bộ đi học đại học cả trong và ngoài nước; năm 1990 có 654 cán bộ công đoàn được bồi dưỡng, đào tạo với nhiều hình thức khác nhau, phù hợp từng loại đối tượng, trong đó nhiều cán bộ người dân tộc.

Công tác xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh cũng được quan tâm chỉ đạo theo tinh thần Chỉ thị số 17 của Ban Thư ký Tổng Công đoàn Việt Nam (K5) về xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh. Kết quả năm 1986 có 27 công đoàn cơ sở; năm 1989 có 95 công đoàn cơ sở và năm 1990 có 135 công đoàn cơ sở được công nhận vững mạnh, khoảng 40% công đoàn cơ sở đạt 3 nội dung (khá) và 15% công đoàn cơ sở trung bình, 10% công đoàn cơ sở yếu kém.

Thời kỳ này công tác tuyên truyền giáo dục công nhân, viên chức, lao động được Liên đoàn Lao động tỉnh rất coi trọng và tiến hành thường xuyên. Liên đoàn Lao động tỉnh đã chủ động triển khai công tác tuyên truyền, quán triệt các Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, Nghị quyết Đại hội IV của Đảng bộ Hà Tuyên tới công nhân, viên chức, lao động hiểu rõ đường lối đổi mới của Đảng, củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới, từ đó đưa các Nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước vào cuộc sống.

Học tập Chỉ thị 80 của TW Đảng về công tác xây dựng Đảng, các cấp công đoàn đã vận động 100% cơ sở với hơn 85% công nhân, viên chức, lao động tham gia học tạp Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI,VII. Năm 1988 trong đợt vận động làm trong sạch Đảng và nâng cao năng lực của tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước. Các cấp công đoàn đã tổ chức triển khai trên 90% nhà máy, xí nghiệp và có trên 75% CNVC tham gia. Từ đó xây dựng thái độ lao động mới, đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường. Đặt biệt phong trào đã lôi cuốn đông đảo nữ công nhân, viên chức tham gia, với gần 1.700 chị tham gia. Ngoài ra Liên đoàn Lao động còn phối hợp với Tỉnh Hội Phụ nữ bồi dưỡng kiến thức làm mẹ cho 1.300 nữ, dạy cắt may 858 công nhân nữ ở các cơ sở, góp phần nâng cao nhận thức cho nữ CNVC trong cơ chế mới.

Năm 1989, công tác tuyên truyền, giáo dục của công đoàn tập trung tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị tư tưởng, triển khai Nghị quyết Đại hội IV Công đoàn tỉnh Hà-Tuyên và Nghị quyết Đại hội VI Công đoàn Việt Nam, cùng các Nghị quyết mới của Đảng. Tổ chức lấy ý kiến CNVC tham gia vào dự thảo bổ sung luật công đoàn, luật bầu cử Hội đồng nhân dân. Sau khi học tập, nhận thức chính trị của CNVC được nâng lên một bước, đại đa số CNVC – LĐ xác định khó khăn hiện tại là tất yếu của quá trình chuyển đổi cơ chế, từ đó phấn khởi trong lao động sản xuất và công tác. Đặc biệt đợt sinh hoạt trong CNVC với chủ đề “Theo con đường Bác Hồ đã chọn” kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thu hút đông đảo CNVC tham gia. Cùng với phong trào thi đua “Lập công dâng Đảng” Liên đoàn lao động tỉnh đã phối hợp với Đoàn thanh niên, Tỉnh hội phụ nữ tổ chức “lễ hội Tân Trào”, mít tinh nhân ngày thành lập Công đoàn Việt Nam đã góp phần làm cho CNVC – LĐ tin tưởng vào công cuộc đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thời gian này đời sống CNVC-LĐ vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng các cấp công đoàn cũng đã cố gắng tổ chức cho CNVC được tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao. Hàng năm có 20% đến 30% CNVC được xem phim, xem biểu diễn nghệ thuật. Nhiều công đoàn cơ sở cùng với chuyên môn đầu tư mua sắm trang thiết bị thông tin tuyên truyền, cả tỉnh có 354 cụm, trạm truyền thanh với 395 km đường dây, 4.352 loa công cộng. Hàng năm có 345.345 số báo các loại, bình quân 55 công nhân có 1 tờ báo… Toàn tỉnh có trên 1.000 đội, tổ văn nghệ, 1.200 đội thể dục, thể thao quần chúng. Đặc biệt đội bắn súng của CNVC Hà Tuyên tham gia giải bắn súng truyền thống của CNVC 6 tỉnh biên giới phía Bắc năm 1987 đã được xếp thứ nhất. Liên đoàn Lao động tỉnh còn tổ chức hội diễn “Tiếng hát lao động trẻ” được CNVC hưởng ứng sôi nổi. Trong phong trào xây dựng gia đình văn hoá, Liên đoàn Lao động và Sở văn hoá đã xét và công nhận trên 50% gia đình CNVC đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá… Có thể nói trong hoàn cảnh khó khăn về việc làm, đời sống nhưng các cấp công đoàn đã góp phần tích cực vào việc giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ CNVC - LĐ tỉnh nhà.

Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới, đời sống CNVC lao động gặp nhiều khó khăn, Nhà nước không còn khả năng bao cấp lương thực, thực phẩm và các mặt hàng thiết yếu phục vụ sinh hoạt đời sống CNVC. Năm 1986, đã thiếu nợ CNVC: 6.767 tấn lương thực, 364 tấn thịt, 230.700 lít nước mắm, hàng trăm ngàn Ste củi, lương chậm thường xuyên 2, 3 tháng, ngoài ra do việc sắp xếp lại sản xuất hàng năm có hàng ngàn CNVC phải nghỉ việc do không bố trí được việc làm…

Trước tình hình đó, các cấp công đoàn trong tỉnh đã cùng với chuyên môn tìm mọi cách chăm lo đời sống cho CNLĐ như: Tổ chức vận động phong trào tăng gia chăn nuôi theo tinh thần Chỉ thị 35 của Ban Bí thư TW và Quyết định 146 của HĐBT về phát triển kinh tế gia đình. Kết quả năm 1987 CNVC toàn tỉnh  đã tăng gia được hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm góp phần cải thiện đời sống. Ngành lâm nghiệp năm 1988 vận động CNVC tăng gia đạt bình quân 50kg lương thực/người, thịt cá 5kg/người, tập thể trồng 30ha ngô, chăn nuôi được hàng trăm trâu, bò và gia cầm các loại. Các cấp công đoàn cơ sở đã hướng dẫn, tổ chức cho CNVC làm thêm nghề phụ, nhận làm hàng gia công, mở căng tin, dịch vụ để tăng thêm thu nhập. Qua Đại hội CN, VC, công đoàn các cấp đã động viên mọi người góp thêm vốn cho xí nghiệp để thay đổi mẫu mã, đa dạng hoá sản phẩm, mở thêm sản xuất phụ tạo thêm việc làm cho CNVC. Năm 1989 riêng ngành Thương nghiệp có 1.959 công nhân được trở lại làm việc. Hội nghị tổng kết công tác chỉ đạo phát triển kinh tế gia đình năm 1990 kết luận: “Kinh tế gia đình thực sự là nguồn thu nhập chính chiếm 65-70% tổng thu nhập của CNVC – LĐ góp phần cải thiện mức sống, khắc phục khó khăn trong tình hình kinh tế hiện nay”.

Thực hiện trách nhiệm quản lý 3 chính sách BHXH cho người lao động là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. LĐLĐ tỉnh đã chỉ đạo các cấp công đoàn tổ chức quản lý và sử dụng có hiệu quả kinh phí BHXH (5%) để chăm lo và cải thiện đời sống CNVC, thực hiện đầy đủ chế độ BHXH theo quy định. Cùng với việc tổ chức cho CNVC nghỉ dưỡng sức, đi tham quan du lịch. Năm 1987, tổ chức cho toàn thể cán bộ công đoàn cơ sở và 1.093 CNVC được nghỉ dưỡng sức trong tỉnh, 400 CNVC đi thăm quan du lịch trong nước, tổ chức cho cán bộ cơ quan Liên đoàn Lao động tỉnh đi tham quan học tập các tỉnh phía Nam. Năm 1988, có 700 CNVC được nghỉ dưỡng sức tại nhà nghỉ Nông Tiến, 18 đoàn gồm 600 CNVC được đi tham quan du lịch trong nước, 420 CNVC được bồi dưỡng tại chỗ. Năm 1989 – 1990 do điều kiện kinh phí nên hoạt động nhà nghỉ, tham quan du lịch gặp khó khăn, nhưng LĐLĐ vẫn cố gắng duy trì đạt 70 – 75% kế hoạch hoạt động bảo hiểm và hội đề ra, đây là cố gắng lớn trong thời kỳ đang chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, góp phần chăm lo đời sống CNVC.

Được sự quan tâm của Chính quyền các cấp, Nhà nước, các cấp công đoàn đã cùng cơ quan tổ chức bình xét, chi trợ cấp thường xuyên và đột xuất cho các gia đình CNVC gặp khó khăn đời sống. Năm 1989, trợ cấp khó khăn 3 đợt được 280 triệu đồng cho 13.434 xuất… Hoạt động công đoàn trong chăm lo đời sống CNVCLĐ thời gian này dã góp phần giải quyết những khó khăn trong đời sống người lao động, giúp họ vượt qua những khó khăn thử thách.

Do những khó khăn trong sản xuất kinh doanh cho nên công tác BHLĐ thời kỳ này cũng gặp rất nhiều khó khăn, Nhà nước chỉ trang bị BHLĐ đạt 60% yêu cầu. Đặc biệt từ khi thực hiện Quyết định 217/HĐBT, nhiều đơn vị phải tập trung giải quyết khó khăn trong sản xuất và tìm việc làm cho công nhân nên công tác này có phần bị coi nhẹ, nhiều nơi khoán trang bị BHLĐ vào lương. Việc sử dụng trang bị BHLĐ ít được quan tâm ở cả phía người lao động và người sử dụng lao động. Trong hoàn cảnh đó Liên đoàn lao động đã thường xuyên đôn đốc, hướng dẫn công đoàn cơ sở thực hiện việc kiểm tra chấm điểm theo Thông tư 08/TT liên bộ. Liên đoàn Lao động tỉnh đã chủ động phối hợp với các ngành liên quan (Sở Lao động, Công an, Y tế…) tiến hành kiểm tra một số đơn vị góp phần chấn chỉnh công tác BHLĐ. Năm 1987 qua kiểm tra đã giải quyết 23 trường hợp tai nạn lao động tồn đọng từ trước, sắp xếp việc làm phù hợp cho 70 lao động nữ, cho 41 CNVC đi điều dưỡng, giải quyết cho 218 công nhân được hưởng chế độ độc hại. Qua kiểm tra, đã đôn đốc 40% các xí nghiệp mua BHLĐ để trang bị đủ cho công nhân ở đơn vị mình. Năm 1988 tiến hành kiểm tra 12 cơ sở, kiến nghị cho 8 công nhân được hưởng bệnh nghề nghiệp… Những cố gắng của các cấp công đoàn về công tác BHLĐ góp phần duy trì các chính sách chế độ của Nhà nước về BHLĐ, bảo vệ tính mạng và sức khoẻ người lao động.

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ bảo vệ lợi ích CNVCLĐ, Liên đoàn Lao động tỉnh đã chú trọng chỉ đạo các cấp công đoàn tổ chức thực hiện tốt công tác kiểm tra công đoàn, công tác hoạt động của các ban Thanh tra công nhân và việc giải quyết đơn thư khiếu tố, khiếu nại, vận động, tổ chức phong trào CNVC tham gia đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, vi phạm chế độ chính sách làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước trong quần chúng CNVC. Thời gian này, toàn tỉnh có 67% các Uỷ ban kiểm tra công đoàn được củng cố kiện toàn với 695 uỷ viên. Năm 1987 các đội kiểm tra công nhân hoạt động  tích cực ở những nơi có dấu hiệu tiêu cực thương mại, giao thông, y tế…. Điển hình vụ Trường thiếu nhi dân tộc nội trú huyện Quản Bạ đã phát hiện và thu hồi 1.700kg gạo, 301 kg thóc, 14kg đường… Đặc biệt là sau khi có Nghị quyết 09 của Ban chấp hành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam về việc hưởng ứng "Những việc cần làm ngay" của Đồng chí N.V.L trên báo Nhân dân, Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh đã chỉ đạo các cấp công đoàn làm tốt công tác chống tiêu cực trong CNVC, đề ra “8 việc cần làm ngay” tập trung xử lý các tồn đọng vướng mắc từ trước, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội làm cho CNVCLĐ góp phần làm cho công nhân, viên chức tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng tham gia tích cực vào công cuộc đổi mới.

2. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong kế hoạch 5  năm (1991 - 1995)

Những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, cách mạng thế giới gặp nhiều khó khăn, chủ nghĩa đế quốc cấu kết với các thế lực chống chủ nghĩa xã hội tập trung mũi nhọn tiến công cách mạng hòng xoá bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, xoá bỏ các nước XHCN. Trước tình hình đó, Đảng và nhân dân Việt Nam vẫn vững vàng kiên định vượt qua mọi khó khăn tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới.

Nhằm phát huy thế mạnh của các địa phương, Đảng - Nhà nước đã có chủ trương tách Hà-Tuyên thành hai tỉnh là Hà Giang và Tuyên Quang. Ngày 16 tháng 9 năm 1991, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra quyết định thành lập Đảng bộ Tuyên Quang và chỉ định Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ Tỉnh do đồng chí Hà Thị Khiết làm Bí thư. Đồng chí Vũ Tiệp làm Phó Bí thư. Từ ngày 1-10-1991 tỉnh Tuyên Quang chính thức đi vào hoạt động theo đơn vị hành chính mới trực thuộc Trung ương.

     Sau khi tái lập, tỉnh Tuyên Quang có diện tích tự nhiên 586.000 ha, dân số 564.528 người, gồm 22 dân tộc anh em chung sống, trong đó 90% dân số sống ở nông thôn. Toàn tỉnh có 6 đơn vị hành chính gồm 5 huyện: Nà Hang, Chiêm Hoá, Hàm Yên, Yên Sơn, Sơn Dương và 1 thị xã (Tuyên Quang). Tỉnh lị đặt tại Thị xã Tuyên Quang.

Sau khi tái lập tỉnh Tuyên Quang có kinh tế phát triển chậm, trình độ sản xuất lạc hậu cơ cấu công nghiệp mới chiếm 14% giá trị tổng sản phẩm xã hội của tỉnh; bình quân đầu người về tổng sản phẩm xã hội còn cách xa bình quân cả nước, lưu thông còn trì trệ chưa phục vụ tốt yêu cầu sản xuất hàng hoá. Kết cấu hạ tầng còn lạc hậu, thu ngân sách mới đáp ứng 25 - 35% nhu cầu chi thường xuyên. Đời sống nhân dân nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng các dân tộc ít người sinh sống còn nhiều khó khăn. Quản lý nhà nước còn nhiều bất bập, kém hiệu lực; trật tự, kỷ cương chưa được giữ vững; tệ nạn xã hội và các biểu hiện tiêu cực còn nhiều. Sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhất là lãnh đạo kinh tế nhất là khi chuyển sang nền kinh tế thị trường còn lúng túng. Trình độ cán bộ, đảng viên chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới; một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu, số ít cán bộ, đảng viên thoái hoá biến chất, ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân. Đối với đội ngũ công nhân, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang trong thực hiện kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 cũng có nhiều thuận lợi. Việc tái lập tỉnh đã đáp ứng và thúc đẩy tình cảm gắn bó truyền thống của cán bộ, đảng viên, đoàn viên công đoàn và nhân dân các dân tộc. Tình cảm ấy là một động lực, tạo không khí hồ hởi, phấn khởi, tin tưởng, chung sức, chung lòng xây dựng quê hương. Tuyên Quang có lực lượng lao động dồi dào, tích luỹ nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, chiến đấu. Tình hình an ninh chính trị - xã hội trong tỉnh nhìn chung ổn định. Tiềm năng đất đai cho phát triển công, nông, lâm nghiệp còn nhiều, giao thông đường bộ, đường sông tương đối thuận lợi, một nửa số huyện có điện lưới quốc gia.

Cùng với việc tái lập tỉnh, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động Tuyên Quang đã có những chuyển biến mới. Dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Tỉnh uỷ lâm thời, công tác tổ chức, kiện toàn công đoàn các cấp đã được tiến hành khẩn trương theo nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam trong giai đoạn mới.

Ngày 1/10/1991, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã có quyết định thành lập Ban chấp hành Liên đoàn lao động lâm thời tỉnh Tuyên Quang gồm 27 đồng chí, do đồng chí Bùi Ngọc Quế làm Chủ tịch và đồng chí Quan Văn Bành làm Phó chủ tịch. Ban chấp hành lâm thời Liên đoàn lao động Tỉnh đã nhanh chóng triển khai hoạt động, phát động toàn thể công nhân, viên chức, lao động thi đua hoàn thành các Chỉ thị, Nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ, của công đoàn cấp trên. Đây là thời điểm công nhân, viên chức Tuyên Quang tập trung phấn đấu xây dựng và củng cố tổ chức công đoàn vững mạnh từ tỉnh đến cơ sở, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của nhiệm vụ đổi mới công tác vận động công nhân trong sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cụ thể hoá các mục tiêu chức năng thành các chương trình hành động của cả hệ thống tổ chức công đoàn. Từ 1991 đến 1995 Công đoàn Tuyên Quang đã tổ chức động viên đoàn viên của mình hành động theo những chương trình lớn.

Chương trình giáo dục định hướng xã hội chủ nghĩa và nâng cao truyền thống cách mạng của giai cấp công nhân đã mang dấu ấn lớn, bước chuyển quan trọng trong nhiệm vụ giáo dục chính trị của LĐLĐ Tuyên Quang. Chương trình này được tiến hành sâu rộng theo khí thế cách mạng mới, bảo đảm cho mọi đoàn viên nhận thức được bản chất của giai cấp công nhân, bản chất ấy được thể hiện trong tình hình cả nước thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.

Thực hiện chương trình này, công nhân, công đoàn Tuyên Quang còn được Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ chỉ đạo, giúp đỡ. LĐLĐ Tỉnh đã biên soạn, in ấn tài liệu gửi đến cơ sở, đến tận tổ công đoàn. 100% đơn vị công đoàn cơ sở đã tổ chức cho đoàn viên, công nhân, lao động học tập Nghị quyết của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà nước. Kết quả đã có hơn 90% công nhân, viên chức tham gia học tập, qua đó nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, về cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó giúp công nhân, viên chức, lao động kiên định, tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng, phấn khởi, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới.

Xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh là nhiệm vụ thường xuyên trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm 1991- 1995. Với bốn nội dung xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh đã trở thành mục tiêu, nhiệm vụ phấn đấu của cả hệ thống công đoàn; cả hệ thống công đoàn hướng về cơ sở, phục vụ cơ sở, tạo điều kiện cho công đoàn cơ sở hoạt động với những nội dung thiết thực. Trong thời kỳ này, công đoàn được thành lập ở nhiều nhà máy, xí nghiệp, cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh.

Quán triệt sự chỉ đạo của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Liên đoàn lao động Tỉnh đã tập trung xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh nhất là ở khu vực ngoài quốc doanh. Kết quả là năm 1992 có 64 công đoàn cơ sở đạt tiêu chuẩn vững mạnh (35%), năm 1993 là 73 cơ sở (đạt 40%), năm 1994 là 82 cơ sở (đạt trên 45%) và năm 1995 đạt 50% trở lên.

Việc chăm lo đời sống của công nhân viên chức đã trở thành một nội dung hoạt động của công đoàn theo chủ trương xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước. Các cấp công đoàn Tuyên Quang đã kịp thời đề ra và tổ chức động viên đoàn viên giúp nhau khắc phục khó khăn, tạo vốn giúp công nhân nghèo và gia đình họ ổn định cuộc sống và phát triển sản xuất. Chương trình đã phát huy tác dụng, được tất cả công đoàn cơ sở triển khai và thực hiện bằng những hình thức phù hợp. Được các cấp uỷ Đảng, chuyên môn quan tâm giúp đỡ nên đông đảo đoàn viên công đoàn cùng hưởng ứng tham gia và trở thành một phong trào lớn, đem lại nhiều hiệu quảt cụ thể.

Năm 1993, công đoàn các cấp đã huy động từ mọi nguồn vốn được 5 tỉ 620 triệu đồng, trong đó từ phong trào công nhân, viên chức, lao động tham gia góp vốn được 920 triệu đồng, giúp đỡ hướng dẫn cho 4.962 công nhân lao động vay vốn tại ngân hàng là 4,7 tỉ. Năm 1994 công nhân lao động tự góp vốn là 800 triệu đồng, giúp đỡ hướng dẫn vay ngân hàng là 3,9 tỉ; 6 tháng đầu năm 1995 tự góp vốn được 950 triệu công đoàn giúp đỡ hướng dẫn vay ngân hàng 4,6 tỉ. Cùng với các nguồn vốn trên, trong hai năm 1994 - 1995 LĐLĐ Tỉnh đã hướng dẫn công đoàn cơ sở làm dự án vay 175 triệu đồng từ nguồn quỹ quốc gia giải quyết việc làm và 15 triệu đồng từ nguồn quỹ Đoàn Thị Điểm của Tổng Liên đoàn Việt Nam, giải quyết cho 240 hộ công nhân lao động vay để phát triển sản xuất cải thiện đời sống. Kết quả đạt được của chương trình đã là góp phần xây dựng quê hương, xây dựng cuộc sống cho nhiều gia đình nghèo tạo được phong trào xoá đói giảm nghèo trong công nhân viên chức, tạo điều kiện để các cơ quan xí nghiệp tập trung sức phấn đấu hoàn thành mục tiêu sản xuất, kinh doanh.

Dân số - kế hoạch hoá gia đình là một quốc sách được Đảng và Nhà nước thường xuyên quan tâm. Đó là một chương trình lớn của công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong thực hiện kế hoạch 5 năm (1991-1995). Để thiết thức góp phần thực hiện mục tiêu dân số của Đảng và Nhà nước, ngay từ năm 1992, Liên đoàn lao động Tuyên Quang đã xác định một chương trình hành động là tiến hành điều tra tình hình phát triển dân số trong công nhân lao động, làm cơ sở đề ra chương trình và tổ chức vận động có hiệu quả kế hoạch dân số.

Mục tiêu của chương trình là: giáo dục cho đoàn viên có nhận thức đúng đắn và rõ ràng ý nghĩa và lợi ích kinh tế - xã hội của sinh đẻ có kế hoạch, tự giác phấn đấu giảm tỉ lệ sinh độ tuổi sinh đẻ và phấn đấu không có đoàn viên sinh con thứ 3.

Chương trình giáo dục dân số - kế hoạch hoá gia đình do công đoàn chủ trì được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng bộ các cấp và được các cơ quan doanh nghiệp tạo điều kiện, giúp đỡ và đôn đốc thực hiện. Thông qua các kỳ đại hội và hội nghị công nhân viên chức để xây dựng chỉ tiêu phấn đấu tới từng đoàn viên, gắn kế hoạch sinh đẻ kế hoạch với quản lý sự nghiệp bảo hiểm xã hội, với phong trào thi đua lao động giỏi và việc thực hiện các chính sách đối với người lao động... Chương trình đã kết hợp giữa giải pháp giáo dục, thuyết phục, vận động được đông đảo đoàn viên, công nhân lao động hưởng ứng. Hầu hết các công đoàn cơ sở, nhất là khu vực hành chính, sự nghiệp đã thực hiện chương trình đúng với chỉ tiêu đề ra. Các xí nghiệp nông - công nghiệp ở các huyện Hàm Yên, Chiêm Hoá, Sơn Dương…có công nhân, viên chức là phụ nữ chiếm số đông hưởng ứng mạnh mẽ chương trình này, giảm mạnh tỷ lệ sinh, con thứ 3. Ngành giáo dục đào tạo có tỉ lệ nữ cao đã được công đoàn vận động thực hiện tốt các chỉ tiêu về kế hoạch hoá gia đình. Từ năm 1992 "phong trào thi đua lao động giỏi" và phong trào "Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" đã được Liên đoàn lao động Tuyên Quang phát động với mục tiêu được xác định rõ ràng là: tổ chức, vận động công nhân viên chức trên tất cả các lĩnh vực phấn đấu đạt hiệu quả làm việc cao, góp phần thiết thức cùng cơ quan doanh nghiệp hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Gắn phong trào lao động giỏi với phong trào người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bằng những nội dung cụ thể như phong trào “giỏi việc nước, đảm việc nhà", "nuôi con khoẻ, dạy con ngoan..."

Phong trào thi đua lao động giỏi tạo được khí thế lao động đều khắp trong công nhân, viên chức, lao động ở hầu hết nông trường, nhà máy, xí nghiệp, cơ quan. Công đoàn các cấp đã đặt ra các mục tiêu thi đua nhằm giành các danh hiệu thi đua lao động giỏi. Năm 1992 đã có 69 cơ sở được Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và Liên đoàn lao động Tỉnh khen thưởng, năm 1993 có 26 công đoàn cơ sở và năm 1994 là 45 công đoàn cơ sở được nhận các danh hiệu trên. Cũng từ năm 1992, có những đơn vị tiêu biểu được Tổng liên đoàn lao động Việt Nam tặng cờ và khen thưởng là công đoàn Ngân hàng, công đoàn xí nghiệp xi măng, Công đoàn trung tâm y tế dự phòng. Tổng kết 5 năm (1989 - 1994) đã có 14.094 nữ công nhân, lao động đạt danh hiệu Phong trào người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó đạt thành tích cấp tỉnh và cấp tương đương là 5270 người, cấp ngành là 6824 người và cấp cơ sở là 2.500.

Thực hiện Nghị quyết 4 của Ban chấp hành Trung ương và Nghị quyết Đại hội lần thứ XI tỉnh Đảng bộ Tuyên Quang. Từ năm 1992 Liên đoàn Lao động tỉnh đã phối hợp với sở văn hoá - thông tin ra Nghị quyết liên tịch cùng nhau tổ chức động viên công nhân, lao động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở theo tinh thần đổi mới các hoạt động văn hoá - văn nghệ - thể dục thể thao của quần chúng trong công nhân lao động. Qua đó tạo điều kiện cho công nhân, lao động thật sự là người vừa sáng tạo ra đời sống văn hoá, vừa là người hưởng thụ văn hoá, góp phần xã hội hoá hoạt động văn hoá - văn nghệ - thể dục thể thao ở cơ sở.

Công nhân, lao động Tuyên Quang đã hưởng ứng mạnh mẽ phong trào văn hoá, văn nghệ và thể dục, thể thao, làm cho phong trào này phát triển rộng khắp ở các nhà máy, xí nghiệp. Phong trào được tổ chức dưới hình thức câu lạc bộ, vận động quần chúng tự đóng góp, tự trang trải để hoạt động. Chỉ tính từ năm 1994, các cấp công đoàn đã phối hợp với cơ quan chuyên môn tổ chức gần 200 cuộc liên hoan văn nghệ và thể dục thể thao quần chúng với hình thức và quy mô khác nhau. Trong đó có những cuộc liên hoan văn nghệ và thi đấu thể thao quy mô khá lớn như: cuộc hội thao, hội diễn của công nhân lao động Ngành Y tế với 15 đơn vị gồm, 150 diễn viên, vận động viên tham gia, hoặc giải bóng chuyền công nhân lao động Huyện Yên Sơn với 20 đơn vị và trên 200 vận động viên tham gia...

Các hoạt động xã hội vì mục tiêu hoàn thành kế hoạch năm năm (1991 – 1995) đã được Liên đoàn lao động Tỉnh chỉ đạo công đoàn các cấp động viên đông đảo công nhân, viên chức tích cực tham gia, tạo được những chuyển biến tích cực vào quá trình tổ chức lại sản xuất. Quá trình này các cấp công đoàn đã giáo dục cho đoàn viên công nhân, lao động có nhận thức và quan niệm mới về lao động, việc làm, chủ động bàn bạc với cơ quan quản lý mở mang phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ,  giải quyết việc làm, tăng thu nhập và ổn định đời sống. Công đoàn các cấp đã tham gia với các cơ quan chuyên môn thực hiện tốt việc chuyển đối từ chế độ lương cũ sang chế độ lương mới, vừa bảo đảm việc triển khai kịp thời, đúng với chính sách tiền lương vừa bảo vệ lợi ích chính đáng của công nhân, viên chức, lao động.

Liên đoàn lao động Tỉnh đã thành lập “Câu lạc bộ người quản lý doanh nghiệp”, tạo điều kiện để giám đốc, các chủ doanh nghiệp trao đổi kinh nghiệm về kết quả đổi mới công tác quản lý, kinh nghiệm tổ chức sản xuất, sắp xếp lại lao động, giải quyết việc làm. Hoạt động này đã giúp các cấp công đoàn có thêm giải pháp và chủ trương để giáo dục, vận động công nhân và hướng dẫn cơ sở thực hiện tốt chức năng chăm lo đời sống cho người lao động. Từ năm 1992 Liên đoàn lao động Tỉnh đã giao chỉ tiêu quản lý sự nghiệp bảo hiểm xã hội cho từng cơ sở, giúp cho công nhân thấy rõ bảo hiểm xã hội vừa là trách nhiệm, vừa là quyền lợi của mỗi đoàn viên, công nhân lao động.

Điểm nổi bật trong các hoạt động xã hội của công đoàn giai đoạn này là vừa coi trọng giáo dục thường xuyên, vừa đề ra nội dung tập trung vận động cụ thể, thiết thực từng việc, từng đợt, từng thời kỳ như: ủng hộ đồng bào bị thiên tai lũ lụt; thực hiện 5 chương trình chăm sóc thương bình, gia đình liệt sĩ; đóng góp xây dựng nhà tình nghĩa, lập thẻ tiết kiệm tình nghĩa, giúp đỡ bà mẹ Việt Nam Anh hùng... Theo thống kê chưa đầy đủ, thời gian 5 năm (1991 – 1995), phong trào này đã huy động được 2 tỉ 200 triệu đồng, lập 972 sổ tiết kiệm tình nghĩa và 242 triệu cho xây dựng 24 ngôi nhà tình nghĩa. Việc tổ chức thăm hỏi và giúp đỡ thiết thực những gia đình gặp khó khăn, gia đình chính sách trong công nhân lao động được các cấp công đoàn tổ chức thực hiện tốt trở thành nền nếp, thành truyền thống tốt đẹp của hoạt động công đoàn.

Có thể nói việc tổ chức động viên công nhân lao động tham gia các mặt hoạt động xã hội của công đoàn các cấp đã góp phần thúc đẩy khí thế thực hiện kế hoạch 5 năm (1991 – 1995), là giải pháp thiết thực hình thành lối sống xã hội chủ nghĩa, củng cố và phát huy ý thức cách mạng, dân chủ, công bằng, văn minh trong tiến trình đổi mới xây dựng đất nước.

Cán bộ là cái gốc của mọi công việc "Có cán bộ tốt việc gì cũng xong". Từ năm 1992, Liên đoàn lao động Tỉnh coi trọng việc nâng cao trình độ cho cán bộ công đoàn. Nâng cao trách nhiệm của công đoàn cấp trên cơ sở tạo điều kiện để công đoàn huyện, thị xã phát huy vai trò, chức năng hoạt động, đi sâu, đi sát vận động vận động quần chúng, góp phần hoàn thành mục tiêu sản xuất kinh doanh.

 Thực hiện sự chỉ đạo của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và của Tỉnh uỷ, LĐLĐ Tuyên Quang đã chuyển hình thức hoạt động của 5 công đoàn cấp huyện sang 5 ban cán sự công đoàn, nhằm nâng cao vị trí, vai trò của công đoàn huyện, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Huyện uỷ và công đoàn cấp trên, tạo điều kiện cho sự phối hợp chặt chẽ công đoàn huyện với công đoàn ngành. Qua đó công đoàn huyện vận động, tập hợp tất cả đoàn viên, công nhân lao động phấn đấu, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội trong kế hoạch 5 năm.

Việc phát triển đoàn viên công đoàn trong những năm này cũng được công đoàn các cấp coi trọng, phần lớn các công đoàn cơ sở ở khu vực hành chính sự nghiệp đã đạt 100% số công nhân, viên chức là đoàn viên, Ngành giáo dục - đào tạo đạt 93%; phần lớn các cơ sở sản xuất kinh doanh đều đạt tỉ lệ 100%, nơi có tỉ lệ thấp cũng là 95%.

Nhằm huy động đông đảo người lao động tham gia tổ chức công đoàn, nhiệm vụ xây dựng công đoàn ngoài quốc doanh được các cấp công đoàn chú ý. Liên đoàn lao động Tỉnh đã xác định đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm tập hợp công nhân, lao động, tăng cường sức mạnh của tổ chức công đoàn. Ban thường vụ Liên đoàn lao động Tỉnh đã thành lập tiểu ban nghiên cứu, phát triển công đoàn ngoài quốc doanh và trọng điểm được xác định là khu vực thị xã. Chỉ một thời gian ngắn đã thành lập được 4 tổ chức công đoàn ngoài quốc doanh, kết nạp được 130 đoàn viên mới.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn cũng được chú ý. Trong 5 năm (1991 – 1995) đã có trên 2000 lượt tổ trưởng công đoàn được bồi dưỡng lý luận nghiệp vụ, 20 cán bộ được cử đi học tập tại trường Đại học Công đoàn. Năm 1993, LĐLĐ Tuyên Quang đã kết hợp với Trường Đại học Công đoàn mở lớp đào tạo Đại học tại chức cho 75 cán bộ công đoàn, ngoài ra còn cử 15 đồng chí đi học tập tại các lớp trung, cao cấp, cử nhân chính trị tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh...

Nói tóm lại, trong kế hoạch 5 năm (1991 – 1995). Đội ngũ công nhân và tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã thể hiện rõ chức năng của mình trong việc thực hiện các kế hoạch, mục tiêu phấn đấu mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XI đã vạch ra.

Trong thời gian thực hiện kế hoạch 5 năm (1991 – 1995), phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang còn những hạn chế như: Chưa theo kịp tiến trình đổi mới chung của đất nước. Một số công đoàn cơ sở, chưa nắm chắc tình hình sản xuất kinh doanh và diễn biến tư tưởng của công nhân, lao động; chưa nắm chắc chế độ chính sách liên quan đến người lao động nên kết quả vận động quần chúng chưa cao. Hoạt động công đoàn có nơi, có lúc còn chung chung, nội dung công tác còn dàn trải. Việc tổng kết, sơ kết theo các chuyên đề để rút ra những kết luận cần thiết chưa kịp thời, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là tổ trưởng công đoàn chưa đáp ứng đòi hỏi của phong trào công nhân, hoạt động công đoàn. Tư tưởng bao cấp, chờ đợi công đoàn cấp trên còn diễn ra khá phổ biến...

Nhìn chung, những ưu điểm và hạn chế của phong trào công nhân, hoạt động công đoàn Tuyên Quang, đều là cơ sở, bài học kinh nghiệm để đội ngũ công nhân, viên chức và tổ chức công đoàn Tuyên Quang bước vào thời kỳ mới - Thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

III. Phong trào công nhân, công đoàn tuyên Quang trong bước đầu công nghiệp hoá, hiện đại  hoá

 1. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong kế hoạch 5 năm (1996-2000)

Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII tại Hà Nội từ ngày 28-6 đến ngày 01-7 năm 1996 đã chỉ rõ "Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh".

Vận dụng các quan điểm đổi mới của Đảng vào chặng đường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh miền núi, kinh tế chậm phát triển và sản xuất nông - lâm nghiệp là chủ yếu. Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã lãnh đạo đội ngũ công nhân, viên chức và đồng bào các dân tộc phát huy mọi tiềm năng. Từ đó đã tạo nên những chuyển biến bước đầu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Từ Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XII, kinh tế - xã hội Tuyên Quang đã có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông, lâm nghiệp. Đến năm 2000, cơ cấu kinh tế so với năm 1995 là : công nghiệp-xây dựng chiếm 19,63%, dịch vụ 28,79%, nông, lâm nghiệp 51,58% . Đến năm 2005 thì tỷ trọng công nghiệp-xây dựng chiếm 30,53% , dịch vụ 32,85% , nông-lâm nghiệp 36,62%.

Quan hệ sản xuất tiếp tục được củng cố, đổi mới về nội dung và hình thức  quản lý theo cơ chế mới, gắn với nền kinh tế nhiều thành phần. Năm 2003, Tuyên Quang có 224 hợp tác xã nông, lâm nghiệp, dịch vụ và 219 doanh nghiệp tư nhân với mức vốn đăng ký bình quân gần 2 tỉ đồng/đơn vị. Đến cuối năm 2005, toàn tỉnh có 358 doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp với số vốn gần 1.000 tỉ đồng, giải quyết việc làm cho hơn 30.000 lao động. Nhà máy thuỷ điện Na Hang công suất 342MW được khởi công xây dựng, đây là một công trình lớn, khi hoàn thành sẽ sản xuất một nguồn điện năng quan trọng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Tỉnh nhà.

Hệ thống kết cấu hạ tầng về điện, đường, trường, trạm, bưu chính viễn thông... đều được đầu tư xây dựng và nâng cấp. Với tổng nguồn vốn đầu tư nhiều chục tỉ đồng được huy động từ nhiều thành phần kinh tế trong và ngoài nước, tỉnh tập trung thực hiện một số chương trình kinh tế - xã hội lớn và một số dự án công trình trọng điểm bước đầu phục vụ có hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực sản xuất và cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Đến cuối năm 2005, Tuyên Quang có 100% xã, phường, thị trấn và 83% số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia (tăng 23% so với năm 2000); đường ô tô đến trung tâm xã, phường, thị trấn đạt tỉ lệ 100% (145 xã), đến tận các thôn bản đạt 96,3%.

Các loại hình giáo dục - đào tạo đều phát triển. Năm học 2005 - 2006 toàn tỉnh có 121 trường mầm non; 349 trường phổ thông các hệ, trong đó phổ thông trung học có 28 trường, chấm dứt tình trạng học 3 ca; ngoài ra còn có 3 trung tâm giáo dục và các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề. Tỉnh đã đầu tư hàng tỉ đồng mua sắm trang thiết bị, phương tiện dạy học cho các trường, hàng vạn bộ sách giáo khoa cho học sinh nghèo mượn sách; xây dựng hàng trăm gian nhà cho học sinh nội trú, hàng ngàn phòng ở tập thể cho giáo viên, bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội cho giáo viên mầm non dân nuôi. Hệ thống trường lớp nội trú dân tộc và các quy định về "Một hội đồng, hai nhiệm vụ" là một sáng tạo của tỉnh. Cùng với việc mở hàng trăm lớp xoá mù và chống tái mù chữ, hàng trăm lớp bổ túc văn hoá cấp II, cấp III cho hàng ngàn học viên đã được thực hiện và đem lại kết quả lớn. Năm 2001, tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở; năm 2003 xoá thôn bản trắng về giáo dục mầm non và đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi.

Năm 2005 toàn tỉnh có 143/145 số xã, phường, thị trấn có trạm y tế; 98,6% thôn, bản có cán bộ y tế và 65% trạm y tế xã có bác sĩ; bệnh biếu cổ được thanh toán; trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm còn 25% (giảm 12% so với năm 2000); 97% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế.

Bộ mặt thôn bản được đổi mới, đời sống nhân dân các dân tộc được cải thiện một bước. Đến năm 2005, cứ 100 dân có 4,8 máy điện thoại; 100% xã, phường có bưu điện hoặc điểm bưu điện văn hoá, thư báo đã đến trong ngày; trên 40% số hộ có đời sống đạt tiêu chuẩn khá và giàu, tỉ lệ hộ nghèo giảm, toàn tỉnh không còn hộ chính sách thuộc diện đói nghèo. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Hệ thống chính trị được củng cố, chất lượng  hoạt động được nâng lên, đáp ứng kịp thời yêu cầu của sự nghiệp xây dung nông thôn mới ở Tuyên Quang.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong bước đầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuyên Quang cũng còn những hạn chế, yếu kém. Kinh tế phát triển chưa đều, chưa vững chắc. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra chậm. Một số chương trình kinh tế - xã hội triển khai chưa bảo đảm những căn cứ khoa học và thực tiễn  nên kém hiệu quả như chương trình mía đường, chăn nuôi bò sửa. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, công nghiệp và nhiều loại hình dịch vụ, du lịch chậm phát triển. Thu hút đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài còn hạn chế. Thu nhập bình quân đầu người so với mặt bằng của cả nước còn thấp, đời sống của nhân dân, nhất là vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Hệ thống chính trị ở cơ sở nhiều nơi còn bộc lộ yếu kém, khuyết điểm; một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thực sự gương mẫu, sa sút ý chí phấn đấu.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh nhà đặt ra cho phong trào công nhân, hoạt động công đoàn Tuyên Quang một trách nhiệm mới. Hội nghị Ban chấp hành Liên đoàn Lao động Tỉnh lần thứ 8 (khoá XII) đã xác định nhiệm vụ trọng tâm của công tác công đoàn trong những năm tới là: Vận động công nhân lao động tổ chức các phong trào hành động cách mạng của công nhân lao động chào mừng Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XII và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu "Đổi mới tổ chức công đoàn và hoạt động công đoàn, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chăm lo và bảo vệ lợi ích của công nhân lao động". Phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh- quốc phòng của tỉnh. Đó cũng là cơ sở cho việc xác định đổi mới các hoạt động của công đoàn Tuyên Quang trong những năm tiếp theo - những năm đất nước đi vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Bước vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đội ngũ công nhân, viên chức lao động Tuyên Quang đã có nhiều thay đổi về số lượng, chất lượng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế, cùng với sự chuyển dịch bước đầu cơ cấu kinh tế đã tác động tích cực đến đội ngũ công nhân, viên chức, lao động. Theo số liệu cuối năm 1996 Tuyên Quang có 28214 công nhân, viên chức, lao động; trong đó có 12931 công nhân, lao động trong khu vực sản xuất kinh doanh, 15283 công nhân, viên chức trong khu vực hành chính, sự nghiệp. Đội ngũ công nhân, viên chức, lao động chiếm khoảng 6% dân cư và 12% lực lượng lao động toàn tỉnh. Đây là lực lượng chủ lực, nòng cốt thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Tuyên Quang. Cơ cấu đội ngũ công nhân cũng có nhiều thay đổi, đã xuất hiện một bộ phận công nhân, viên chức có tay nghề và trình độ cao làm việc trong các ngành kinh tế như điện lực, bưu chính viễn thông, ngân hàng, điện tử, tin học. Bên cạnh đó, việc tinh giảm biên chế trong các xí nghiệp quốc doanh, các đơn vị hành chính sự nghiệp làm cho số lượng cán bộ, công nhân, viên chức làm việc trong khu vực quốc doanh có nhiều thay đổi. Năm 1998 toàn tỉnh có 64 doanh nghiệp nhà nước nhưng đến 2003 chỉ còn 50.

Công nhân, lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng khá nhanh. Nếu như năm 1998 toàn tỉnh có 7 doanh nghiệp ngoài quốc doanh với 638 công nhân lao động thì đến tháng 12 năm 2002 đã là 213 doanh nghiệp với 4.125 công nhân. So với năm 1998, năm 2003 khu vực hành chính sự nghiệp 18.209 người, tăng 13,94%; khu vực sản xuất kinh doanh có 15.672 người, tăng 28,1%. Trong đó có 11.547 người thuộc doanh nghiệp nhà nước.

Về chất lượng. Đại bộ phận công nhân viên chức và lao động trong tỉnh có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chấp hành tốt mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, có nhiều cố gắng nỗ lực, khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ sản xuất, công tác và học tập.

Trong những năm đầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tỉnh Tuyên Quang đã có những chủ trương, chính sách từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên chức, lao động. So với những năm 1993 – 1998, năm 2003 số công nhân viên chức, lao động có trình độ trung học phổ thông là 74,35%, tăng 8,46%; trình độ đại học, cao đẳng 21,3%, tăng 3,2%; có 3 tiến sĩ, 48 thạc sĩ, chuyên viên chính và tương đương là 184; chuyên viên và tương đương là 6.225. Trình độ tay nghề ở khu vực sản xuất kinh doanh đều tăng lên, số công nhân bậc 5, 6, 7 chiếm 13,6% (tăng 2,88%).

Tuy nhiên, trình độ học vấn, tay nghề của công nhân lao động chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của tỉnh, công nhân bậc cao 6/7 và 7/7 mới đạt 5,57%; trong khi đó công nhân bậc 1 bậc 2 và 3/7 chiếm 41,97%. Số cán bộ công chức đạt tiêu chuẩn chuyên viên, chuyên viên chính và trình độ trên đại học còn ít, chưa có chuyên viên cao cấp. Một số cán bộ, công chức thuộc các ngạch cán sự, chuyên viên, chuyên viên chính chưa được chuẩn hoá về trình độ, còn hạn chế về kiến thức chuyên môn và năng lực thực tiễn.

Đối với khu vực hành chính sự nghiệp: Nhìn chung công nhân, viên chức đều có việc làm ổn định, điều kiện làm việc đảm bảo, được quan tâm đúng mức, hiệu quả công tác ngày càng tốt hơn.

Đối với khu vực sản xuất kinh doanh: Nhiều doanh nghiệp đã chủ động, sáng tạo tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, mạnh dạn đầu tư đổi mới dây truyền công nghệ sản xuất, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, đảm bảo việc làm, thu nhập, cải thiện đời sống cho người lao động như: xí nghiệp xi măng, mỏ sắt và cán thép, công ty phát triển công nghiệp Tuyên Quang.... Công tác an toàn vệ sinh lao động trong các đơn vị sản xuất được tăng cường và chú trọng hơn. Một số đơn vị còn gặp nhiều khó khăn như Công ty xây lắp, khai thác khoáng sản, chế biến lâm sản, các lầm trường, các đơn vị sản xuất theo mùa vụ, người lao động vẫn còn thiếu việc làm.

Trong quá trình tổ chức lại sản xuất, một số đơn vị chấp hành luật lao động chưa nghiêm, còn tình trạng cấp phát trang bị bảo hộ lao động bằng tiền và tính vào đơn giá khoán sản phẩm cho người lao động. Việc khám sức khoẻ định kỳ và điều trị bệnh nghề nghiệp chưa duy trì thường xuyên. Điều kiện làm việc cho công nhân, lao động nhất là lao động nữ chậm được cải thiện. Số lao động thủ công, độc hại còn nhiều, cá biệt có đơn vị phải đình chỉ sản xuất vì không bảo đảm an toàn vệ sinh làm việc như  xí nghiệp Thiếc Sơn Dương.

Công nhân, viên chức khu vực hành chính sự nghiệp tương đối ổn định, khu vực sản xuất kinh doanh có mức thu nhập không đều, có sự chênh lệch khá lớn giữa một số đơn vị như: xăng, dầu, điện lực, ngân hàng, thương mại, bưu điện... với các đơn vị như: các công ty chè, chế biến lâm sản, khai thác khoáng sản, các lâm trường... Chế độ tiền lương cũng còn nhiều vấn đề chưa hợp lý, tiền lương chưa thực sự là động lực thúc đẩy công nhân, lao động làm việc.

Tâm tư tình cảm của công nhân, lao động cũng có những diễn biến phức tạp, phần đông phấn khởi tin tưởng vào đường lối đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, cũng có một số công nhân, viên chức lao động thờ ơ, bàng quan trước những vấn đề chính trị - xã hội của địa phương, của đất nước, có người còn vi phạm luật pháp, mắc tệ nạn xã hội.

Nhiệm vụ củng cố và xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh vẫn được xem là khâu trọng yếu của các cấp công đoàn. Trong chương trình hành động của mình, các cấp công đoàn đã xác định việc xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh là chương trình công tác lớn, công đoàn phải là người đại diện và bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân lao động, góp phần giám sát, kiểm tra, đấu tranh ngăn chặn hiện tượng tiêu cực. Năm 1996, Liên đoàn lao động Tỉnh đã tập huấn về đổi mới hoạt động công đoàn cho 212 cán bộ công đoàn cơ sở, hướng dẫn các cấp công đoàn tổ chức lớp bồi dưỡng cho 340 cán bộ công đoàn bộ phận về nghiệp vụ công tác công đoàn.

Nhìn chung chương trình xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh được duy trì tốt. Báo cáo kết quả hoạt động công đoàn Tuyên Quang năm 1997 đã  khẳng định "Chương trình xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh thật sự trở thành chương trình công tác lớn... là tổ ấm, là chỗ dựa của công nhân lao động".

Vững vàng về tư tưởng và lớn mạnh về tổ chức, công đoàn Tuyên Quang đã phát huy được vị trí, vai trò, chức năng của mình trên tất cả các lĩnh vực. Trong những năm 1996, 1997 tình hình kinh tế, xã hội tiếp tục có những chuyển biến, an ninh quốc phòng được giữ vững, nhiều ngành sản xuất kinh doanh có mức tăng trưởng khá, sản xuất lương thực đạt mức cao, sản xuất công nghiệp nhất là những sản phẩm trọng yếu như Điện, Xi măng, bưu chính, giao thông vận tải, tài chính, tín dụng đều có mức tăng trưởng khá theo xu hướng bền vững, năm sau cao hơn năm trước.

Đời sống của số đông công nhân, viên chức, lao động tiếp tục được cải thiện, nhiều xí nghiệp sản xuất ổn định, các thành phần kinh tế tiếp tục được duy trì và phát triển, kinh tế hợp tác xã được củng cố. Kinh tế gia đình được phát triển, tạo thêm việc làm cho công nhân, lao động. Công tác an ninh quốc phòng được giữ vững, góp phần ổn định chính trị, tư tưởng trong công nhân, viên chức, lao động.

Tuy nhiên, một số vấn đề bức xúc như việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hộ lao động còn gặp nhiều khó khăn. Ở một số đơn vị thuộc như: sản xuất chè, giao thông ở vùng sâu, vùng xa, các xí nghiệp khai thác luyện kim màu như: xí nghiệp thiếc Sơn Dương, Thiếc Bắc Lũng, xí nghiệp VonFran, xí nghiệp bột kẽm, xí nghiệp Gạch chịu lửa. Công ty sản xuất vật liệu và cung ứng dịch vụ, Công ty xây dựng và kinh doanh nhà ở Thị xã... đều thiếu vốn, sản xuất không ổn định, chi phí sản xuất cao, các khoản nợ do khách hàng chiếm dụng kéo dài, sản phẩm khó tiêu thụ, thu nhập của người lao động thấp, việc thực hiện chế độ, chính sách xã hội đối với người lao động chưa kịp thời. Từ thực tế ấy đã ảnh hưởng đến tư tưởng một bộ phận công nhân lao động và hoạt động của công đoàn các cấp.

Hội nghị Ban chấp hành Liên đoàn Lao động Tuyên Quang lần thứ 8 và thứ 10 (khoá X) đã xác định rõ vai trò của mình. Các nghị quyết đã đi vào phong trào công nhân, công đoàn các cấp và được cụ thể hoá thành nhiệm vụ công tác: "Đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chăm lo và bảo vệ lợi ích của công nhân lao động", phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội - an ninh quốc phòng của tỉnh. Việc thực hiện chương trình nhiệm vụ ấy diễn ra khẩn trương, toàn diện trên tất cả các mặt, các lĩnh vực.

Phong trào thi đua "lao động giỏi", phong trào "xanh, sạch, đẹp” trong công nhân, lao động được đẩy mạnh và phát triển sâu rộng, 6 công đoàn ngành, 6 công đoàn huyện, thị, 43 công đoàn cơ sở trực thuộc đã hướng ứng và ký giao ước thi đua với nhiều nội dung nhiều hình thức phong phú, phù hợp với đặc điểm và tình hình công tác, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Công đoàn ngành Y tế, Công đoàn ngành Giáo dục - đào tạo, Công đoàn Bưu điện tỉnh, Công ty chè tổ chức các hội thi "giáo viên dạy giỏi"; hội thi "Nữ y tá, hộ sinh duyên dáng"; hội thi "cán bộ công đoàn giỏi”; hội thi "Cán bộ nữ công giỏi”... được tổ chức tốt, thu hút đông đảo công nhân, lao động tham gia. Năm 1996 công nhân, viên chức, lao động đã có 162 công trình chào mừng đại hội Đảng các cấp, áp dụng công nghệ mới, đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất đã làm lợi nhiều triệu đồng. Chỉ tính riêng các sáng kiến, sáng chế trong xí nghiệp xi măng công nhân và cán bộ kỹ thuật đã làm lợi 325 triệu đồng.

Công đoàn các cấp với công tác tham gia quản lý kinh tế, giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện làm việc chăm lo đời sống công nhân lao động trong những năm 1996-1997 đã có nhiều chuyển biến. Công tác này được Liên đoàn Lao động Tỉnh triển khai theo hướng dẫn của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và trên cơ sở các quy định của Nhà nước. Ban Thường vụ Liên đoàn lao động Tỉnh chỉ đạo các cấp công đoàn mở Hội nghị công nhân viên chức ký kết thoả ước lao động tập thể. Nhiều công đoàn cơ sở đã bám sát sự chỉ đạo của cấp uỷ, chủ động phối hợp với chính quyền để triển khai hội nghị công nhân, viên chức đạt kết quả cao. Trong đó bầu hội đồng xí nghiệp và ban Thanh tra nhân dân đạt tỉ lệ 98%. Thông qua hội nghị công nhân viên chức công đoàn các cấp tập hợp được nhiều ý kiến tham gia vào quá trình tổ chức, sắp xếp lao động, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất... Trên cơ sở đó việc tổ chức động viên công nhân, viên chức, lao động thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như những mục tiêu kinh tế xã hội của xí nghiệp, của địa phương phát triển theo hướng tích cực ở hàng loạt vấn đề như: Nhận và sử dụng đất rừng, làm chè khoán, công tác cung ứng vật tư, kỹ thuật, điện, nước thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, đưa công nghệ và ứng dụng giống mới vào sản xuất, đồng thời phát hiện kịp thời những sai sót, kịp thời điều chỉnh những sai sót trong ký kết hợp đồng lao động và chế độ chính sách đối với người lao động.

Thực hiện những chủ trương lớn của Trung ương, của Đảng bộ Tuyên Quang và sự chỉ đạo của Thường vụ Liên đoàn Lao động Tỉnh,  công đoàn cơ sở đã xây dựng các loại quỹ trợ vốn phát triển sản xuất và vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm. Năm 1997, Trung tâm xúc tiến việc làm Liên đoàn Lao động Tỉnh tiếp tục hướng dẫn vay vốn quỹ quốc gia qua kênh của Tổng Liên đoàn cho 10 dự án. 355 hộ gia đình đã có điều kiện tốt hơn đẩy mạnh phát triển sản xuất.

Trong thời gian này, hoạt động phòng chống tệ nạn xã hội cũng diễn ra quyết liệt, với vai trò, chức năng và trách nhiệm của mình các cấp công đoàn Tuyên Quang đã xác định rõ chương trình phòng chống tệ nạn xã hội. Năm 1996 tiếp tục kiện toàn và duy trì các ban, phòng chống tệ nạn xã hội ở 12 công đoàn ngành, huyện, thị xã. Tổ chức tập huấn nghiệp vụ, tuyên truyền phổ biến các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về các tệ nạn xã hội. Kết quả là 12/12 huyện, thị xã và 156/182 công đoàn cơ sở đã thành lập tiểu ban phòng chống tệ nạn xã hội. Các tiểu ban này đã đi vào nền nếp hoạt động, cam kết không có công nhân, lao động vi phạm các tệ nạn xã hội. Năm 1996, Liên đoàn lao động Tỉnh đã tổ chức hai đợt tập huấn cho 162 cán bộ chủ chốt quán triệt 33/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương, Nghị quyết 05 - 06 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị 17 của Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Chỉ thị 07 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ , đã cấp phát 2.500 cuốn tài liệu phục vụ công tác tuyên truyền, vừa phát động cuộc thi vẽ tranh cổ động, tranh đả kích chống văn hoá phẩm đồi truỵ, chống tệ nạn xã hội. Năm 1997 thực hiện kế hoạch phòng chống tệ nạn xã hội theo hướng dẫn số 1121 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Liên đoàn lao động Tuyên Quang phối hợp với các ngành đã xây dựng các khu công nhân lao động không có tệ nạn xã hội, gắn với phong trào xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư... với việc tập trung chỉ đạo ngăn chặn đẩy lùi dần mọi tệ nạn xã hội có hiệu quả.

Bước sang năm 1997, Liên đoàn Lao động đã tập trung lãnh đạo các cấp công đoàn đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, hoàn thành kế hoạch nhà nước. Nổi bật là phong trào đổi mới cơ chế sản xuất, mở rộng thị trường, tăng thu nhập cho người lao động. Để chuẩn bị cho Đại họi Công đoàn tỉnh lần thứ XII, Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động đã họp và bàn về công tác tổ chức ở các Liên đoàn Lao động huyện, thị xã, ngành trong thời gian tới.

Tháng 7/1997, căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ và bố trí nhân sự lãnh đạo, Ban  Thường vụ Tỉnh uỷ đã điều đồng chí Vũ Văn Nhân về làm Chủ tịch LĐLĐ Tuyên Quang thay đồng chí Bùi Ngọc Quế đi nhận công tác khác.

Chuẩn bị cho Đại hội Công đoàn Tuyên Quang lần thứ XII, các cấp công đoàn đã có nhiều hoạt động trong chương trình chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và các hoạt động đền ơn đáp nghĩa. Đây là chương trình được công nhân, viên chức tham gia tích cực, thể hiện sâu sắc truyền thống uống nước nhớ nguồn, truyền thống đại đoàn kết của dân tộc. Chương trình này được xác định trên cơ sở thông báo số 20 ngày 27-7-1996 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ "Về việc vận động ủng hộ, giúp đỡ gia đình chính sách còn nghèo khó". Trên cơ sở Chỉ thị 09/CT-TW của Bộ Chính trị về "Mở đợt vận động kỷ niệm 50 năm ngày thương bình, liệt sĩ" và Nghị quyết 18/NQ-TW ngày 17 tháng 3 năm 1997 về "công tác chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có cống với cách mạng". Chỉ 3 tháng sau khi phát động công nhân, viên chức và lao động toàn tỉnh đã quyên góp được trên 604.500.000đ. Chương trình này đã làm mới 117 nhà ở và sửa chữa 80 nhà. Thành công này đã tạo đà cho các chương trình văn hoá xã hội khác như phong trào "Quyên góp ủng hộ giúp đỡ công nhân lao động và nhân dân các tỉnh bị thiệt hại do cơn bão số 5". Kết quả là đến tháng 12/1997 số tiền ủng hộ đã lên tới 415.926.448 đồng.

Trong những năm 1996, 1997 hoạt động của công đoàn các cấp được thể hiện trong việc vận động đoàn viên, công nhân, lao động thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh Quốc phòng của Tỉnh, góp phần xây dựng đội ngũ công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh. Trong đó nổi bật, tiếp tục triển khai 4 chương trình lớn là: Chương trình giáo dục định hướng xã hội chủ nghĩa và bản chất giai cấp công nhân; chương trình giúp đỡ công nhân viên, lao động nghèo; chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình (trong công nhân, lao động); Chương trình xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh.

LĐLĐ đã chỉ đạo các cấp công đoàn tổng kết 4 năm thực hiện 4 chương trình, xây dựng nội dung với những mục tiêu cao hơn và hướng dẫn các cấp công đoàn thực hiện. Các cấp công đoàn đã tổ chức cho công nhân lao động hưởng ứng sâu, rộng; tham gia học tập Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII. Kết quả là có 203 công đoàn cơ sở đã tham gia học tập đạt tỉ lệ 89%. Qua đó chất lượng đoàn viên được nâng lên, nhân thức chính trị tư tưởng ngày càng vững vàng, đa số công nhân, viên chức, lao động thấy rõ âm mưu diễn biến hoà bình của kẻ địch, quyết tâm vượt qua nguy cơ và thách thức, thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội tỉnh nhà. Ngoài ra các cấp công đoàn còn giới thiệu nhiều đoàn viên vào Đảng, năm 1996 có 503 công nhân, viên chức được các cấp uỷ Đảng kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chương trình giúp đỡ một bộ phận công nhân, viên chức, lao động vượt qua khó khăn về đời sống được tiếp tục đẩy mạnh với hiệu quả cao, thông qua những nội dung và hình thức hoạt động phong phú như: góp vốn giúp nhau làm kinh tế gia đình, giúp vốn cùng doanh nghiệp đổi mới công nghệ, thiết bị phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho công nhân, lao động. Đi đầu là công đoàn ở các xí nghiệp xi măng, công ty xây dựng và kinh doanh nhà thị xã, bưu điện, công ty chè... số tiền mà công nhân, lao động tự nguyện góp vốn năm 1996 là 5 tỉ 246 triệu đồng. Năm 1997 công đoàn các xí nghiệp vận động được 3,5 tỉ và tạo quỹ vốn cho vay không lấy lãi là 3,1 tỉ đồng. Tính đến cuối năm 1997 trong số 203 công đoàn cơ sở đã có 156 công đoàn cơ sở không còn hộ nghèo đói. Kết quả hoạt động theo hướng này đã giúp nhiều xí nghiệp giảm dần số hộ nghèo, từng bước thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, góp phần ổn định chính trị xã hội.

Năm 1998, năm tổ chức đại hội công đoàn các cấp tiến tới Đại hội lần thứ VIII Công đoàn Việt Nam, Ban chấp hành LĐLĐ Tuyên Quang đã xác định nhiệm vụ trọng tâm là: tiếp tục phát huy tinh thần cách mạng, ý chí vươn lên hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn, góp phần hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - văn hoá của kế hoạch 5 năm (1996 – 2000). Trên tinh thần đó các cấp công đoàn đổi mới hơn nữa nội dung, hình thức hoạt động, thực hiện tốt 3 chức năng tổ chức tốt các phong trào thi đua trong quần chúng.

Với tinh thần đó đội ngũ công nhân, viên chức và tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã có nhiều cố gắng, khắc phục mọi khó khăn, góp phần quyết định thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội như duy trì được nhịp độ tăng trưởng bình quân 9,4%; cơ cấu kinh tế, nhất là trong lĩnh vực nông - lâm có bước chuyển dịch theo hướng tích cực. Đó là một kết quả tổng hợp có sự tham gia phấn đấu tích cực của đội ngũ công nhân và tổ chức công đoàn theo chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu đã được cụ thể hoá thành 4 chương trình và 2 phong trào. - Chương trình giáo dục định hướng xã hội chủ nghĩa đã có bước đổi mới, cách làm đa dạng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của công nhân lao động nhất là các cơ sở ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, thực sự góp phần nâng cao nhận thức chính trị, củng cố niềm tin vào chủ trương đường lối của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới và con đường đi lên CNXH.

Các cấp công đoàn luôn xác định rõ mục tiêu, giải pháp, trong việc giảm bớt khó khăn cho công nhân, viên chức lao động. Kết quả đạt được là rất tích cực, nếu như năm 1994 có 4% hộ nghèo, thì đến năm 1997 còn 2%, và đến 1998 có  70% số cơ sở công đoàn không còn công nhân, viên chức, lao động thuộc diện nghèo.

Công tác xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh, đã cụ thể hoá tiêu chuẩn phấn đấu trong từng thời kỳ, kết hợp việc xây dựng hệ thống công đoàn vững mạnh và tranh thủ sự sự lãnh đạo của cấp uỷ, sự giúp đỡ của chính quyền và các đoàn thể. Coi trọng xây dựng công đoàn cơ sở ở khu vực nhà nước, đa dạng hoá hình thức tập hợp công nhân lao động trong các thành phần kinh tế. Kết quả năm 1993 có 41,2% số công đoàn cơ sở vững mạnh thì năm 1997 là 61,09% công đoàn cơ sở đạt danh hiệu trên. Việc này đã đưa số lượng đoàn viên công đoàn tăng hơn năm 1993 gần 6000 người.

Phong trào thi đua "lao động giỏi" và phong trào "giỏi việc nước đảm việc nhà" trong nữ công nhân, lao động được phát huy và kết hợp với phong trào "nuôi con khoẻ, dạy con ngoan". Các hoạt động của giới đã giúp cho nữ công nhân viên chức - lao động có điều kiện rèn luyện, học tập vươn lên đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ công tác. Tổng kết phong trào đã có 12.094 chị đạt danh hiệu "giỏi việc nước, đảm việc nhà", trong đó có 6.824 chị đạt danh hiệu cấp cơ sở và ngành, 4904 chị đạt danh hiệu cấp tỉnh và 366 chị đạt danh hiệu cấp Trung ương.

Nhìn chung trong những năm thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu công đoàn toàn tỉnh lần thứ XII, công nhân viên chức và lao động Tuyên Quang đã nhận thức được những thuận lợi, khó khăn, thời cơ và thách thứ của đất nước. Đội ngũ công nhân, viên chức đã gắn bó với đơn vị để giữ vững và phát triển sản xuất - kinh doanh theo cơ chế mới; tổ chức giúp đỡ lẫn nhau, thi đua lao động tốt, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người lao động.

Tuy nhiên trong quá trình này phong trào công nhân, hoạt động công đoàn Tuyên Quang cũng bộc lộ những khuyết điểm: Việc vận dụng chức năng của công đoàn vào cơ chế mới còn nhiều lúng túng, việc tham gia quản lý của công đoàn còn thấp do đó hiệu quả bảo vệ quyền dân chủ và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức lao động chưa cao.

Quán triệt sự chỉ đạo của Ban thường vụ Liên đoàn lao động tỉnh, từ tháng 2 đến tháng 6 năm 1998 Tuyên Quang đã hoàn thành đại hội công đoàn cấp cơ sở và cấp trên cơ sở. Thông qua Đại hội, các cấp công đoàn đã đề ra phương hướng và nhiệm vụ nhiệm kỳ mới, kiện toàn Ban chấp hành, bổ sung thêm nhiều cán bộ lãnh đạo, trong đó có nhiều đồng chí là công nhân, là người dân tộc.

Tháng 8-1998 Đại hội đại biểu lần thứ XII Công đoàn Tỉnh Tuyên Quang được tiến hành, 165 đại biểu chính thức thay mặt cho hơn 28.000 công nhân, viên chức, lao động trong tỉnh về giữ đại hội. Đại hội đã thảo luận báo cáo của Ban chấp hành Liên đoàn Tỉnh khoá XI về nhiệm kỳ 1993 - 1998; đề ra phương hướng, nhiệm vụ hoạt động công đoàn nhiệm kỳ 1998 - 2003; Và dự thảo văn kiện Đại hội VIII công đoàn Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu mà công đoàn đã thực hiện được, đại hội nhấn mạnh: Hoạt động công đoàn gắn với nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh mà trọng tâm là việc làm, đời sống của công nhân viên chức lao động, thực hiện chức năng tham gia quản lý, đẩy mạnh các phong trào thi đua "Lao động giỏi, lao động sáng tạo", phong trào "giỏi việc nước, đảm việc nhà".147

Trên cơ sở đánh giá các mặt hoạt động của tổ chức công đoàn nhiệm kỳ XI, Đại hội đã nêu 7 nhiệm vụ lớn của phong trào công nhân, hoạt động công đoàn nhiệm kỳ XII là: "Xây dựng giai cấp công nhân Tuyên Quang phát triển về số lượng, nâng cao chất lượng, giác ngộ giai cấp; xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ công đoàn đáp ứng yêu cầu của phong trào công nhân và hoạt động công đoàn vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì việc làm, đời sống và quyền lợi chính đáng của công nhân viên chức - lao động. Phát triển đoàn viên, củng cố tổ chức công đoàn trong các thành phần kinh tế. Giáo dục, vận động CNVC - Lao động phát huy vai trò làm chủ trong sản xuất, làm chủ xã hội, tích cực tham gia lao động sản xuất và tham gia quản lý với năng suất cao, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội mà Nghị quyết Đại hội lần thứ XII Đảng bộ Tỉnh và các nghị quyết của Tỉnh uỷ đề ra"148

Đại hội đã bầu Ban chấp hành mới bao gồm 33 đồng chí, đồng chí Vũ Văn Nhân được bầu làm Chủ tịch, các đồng chí Lưu Bích Thuận và Quan Văn Bành làm Phó Chủ tịch Liên đoàn lao động tỉnh Tuyên Quang.

Bước sang năm 1999, năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII Công đoàn Việt Nam và Nghị quyết Đại hội XII Công đoàn Tuyên Quang. Các cấp công đoàn đã tổ chức cho hàng vạn lượt đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động học tập các Nghị quyết của trung ương Đảng, Tổng liên đoàn lao động việt nam và Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ. Qua đó tăng cường ý thức chính trị cho công nhân, lao động, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong công cuộc đổi mới, nòng cốt của Liên minh Công nông tri thức và khối đại đoàn kết dân tộc. Đến quý II năm 1999 hàng trăm công đoàn cơ sở đã tổ chức quán triệt, phổ biến và học tập chính trị, tư tưởng cho hơn 90% CNVCLĐ.

Năm 1999, Ban thường vụ Liên đoàn lao động tỉnh đã phát động phong trào thi đua yêu nước trong công nhân, viên chức, lao động, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, lập thành tích chào mừng kỷ niệm 70 năm ngày thành lập công đoàn Việt Nam, tiến tới Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc vào năm 2000. Hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước, công nhân, viên chức, lao động trong tỉnh đã nỗ lực khắc phục khó khăn để ổn định và phát triển sản xuất, góp phần tạo nên những chuyến biến quan trọng về kinh tế, xã hội của tỉnh nhà.

Các cấp công đoàn đã chọn các hình thức, biện pháp thích hợp như tổ chức toạ đàm, mở hội nghị thi thợ giỏi, hội thi tay nghề đưa phong trào thi đua vào chiều sâu. Trong đó Công đoàn Bưu điện đã mở cuộc hội thảo với 20 đề tài khoa học, 13 tập thể và 7 cá nhân có đề tài được ứng dụng vào sản xuất kinh doanh. Tổng kết thi đua 1999 công đoàn Bưu điện Tuyên Quang được Công đoàn Bưu điện Việt Nam tặng cờ thi đua xuất sắc.

Công đoàn ngành Giáo dục đẩy mạnh cuộc vận động "Một hội đồng, hai nhiệm vụ" và duy trì có hiệu quả cuộc vận động "Kỷ cương - tình thương - trách nhiệm" ở tất cả 320 cơ sở trường học trong tỉnh. Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đã hướng nội dung thi đua vào tổ chức sản xuất kinh doanh, tìm việc làm cho người lao động. Các cơ quan hành chính sự nghiệp tập trung thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao với chất lượng cao.

Thực hiện Nghị quyết liên tịch giữa Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam với Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn về "Phát động phong trào thi đua phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn,” Các cấp công đoàn Tuyên Quang đã đề ra các chương trình vận động công nhân viên chức - lao động phục vụ sản xuất nông nghiệp và ủng hộ 398.443.000 đồng để kiên cố hoá kênh mương. Nhân dịp này, Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động Tỉnh đã xét thưởng 16 tập thể và 25 cá nhân có thành tích xuất sắc, trao tặng 177 “huy chương vì sự nghiệp xây dựng tổ chức công đoàn” cho các cán bộ và đoàn viên công đoàn xuất sắc. Phong trào thi đua yêu nước năm 1999 đã có 15 tập thể đạt danh hiệu lao động giỏi được nhận cờ thi đua, 69 tập thể và 187 cá nhân được tặng bằng khen của Tổng liên đoàn lao động việt nam và Uỷ ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang.

Năm 1999 các cấp công đoàn hoạt động tích cực, chủ động và có hiệu quả cao, công đoàn các cấp đã tham gia việc sắp xếp lại sản xuất, chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nước thành các công ty cổ phần, tham gia phương án phát triển sản xuất, ổn định việc làm, bảo đảm đời sống cho người lao động. Đây cũng là năm công tác tổ chức của công đoàn có nhiều chuyển biến. Ban chấp hành Liên đoàn Lao động Tỉnh đã kiện toàn, củng cổ bộ máy từ Tỉnh đến cơ sở. Có tới 67,5% công đoàn cơ sở, 100% công đoàn cấp trên cơ sở đã xây dựng, bổ sung quy chế làm việc, 6 tổ chức công đoàn cơ sở mới được thành lập trong đó có một tổ chức công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh.

Là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, đội ngũ công nhân và tổ chức công đoàn Tuyên Quang đang thi đua lao động sản xuất đưa các nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Góp phần quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của Tỉnh: "Đảm bảo mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 8,45%. Sản xuất nông, lâm, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển ổn định, năm sau cao hơn năm trước. Theo đánh giá tổng kết năm 1999: Nông nghiệp tăng 6,5%; công nghiệp xây dựng tăng 8,8%; các ngành dịch vụ tăng 10,8%; sản lượng quy thóc đạt 22,74 vạn tấn; công tác trồng, quản lý, bảo vệ rừng được chủ động, độ che phủ rừng đạt 46,73%; tỉ lệ đói nghèo tính đến tháng 11 năm 1999 chỉ còn 5,3%; văn hoá giáo dục phát triển mạnh, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững".149

Cùng với phong trào thi đua và khí thế thắng lợi chung của đồng bào các dân tộc trong Tỉnh, ngày 2 tháng 6 năm 2000, LĐLĐ Tuyên Quang đã mở Đại hội thi đua, biểu dương các điển hình tiên tiến trong công nhân viên chức - lao động. Đây là sự kiện lịch sử của phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang thời kỳ thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đại hội tiêu biểu cho ý chí yêu nước của hơn 28.000 CNVCLĐ Tuyên Quang. Báo cáo thi đua và phát động thi đua của Liên đoàn Lao động Tỉnh, của 8 ban ngành, 9 cá nhân đã nêu bật được những thành tích của đội ngũ công nhân, viên chức, lao động trong những năm đầu công nghiệp hoá hiện đại hoá.

Sau Đại hội, Các cấp công đoàn đã bám sát những mục tiêu kinh tế, xã hội để đều ra toan đề ra các nội dung thi đua với những mục tiêu cụ thể. Qua đó tuyên truyền vận động cán bộ công nhân, viên chức, lao động hiểu rõ mục đích, ý nghĩa của công tác thi đua khen thưởng. Công tác thi đua đã có bước đổi mới về nội dung, hình thức, gắn liền với các cuộc vận động có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc, khơi dậy tính tích cực, năng động sáng tạo của công nhân, viên chức, lao động, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh. Do việc tổ chức hợp lý nên động viên được khí thế cách mạng của quần chúng. Thông qua các phong trào thi đua, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động các ngành đã đạt những thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội.

Ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cơ quan chuyên môn, các đoàn thể bám sát chương trình kinh tế của Tỉnh như chương trình cây lương thực, cây ăn quả, cây công nghiệp, chương trình 327; kiên cố hoá kênh mương, chăn nuôi v.v... tập trung hoàn thành các chỉ tiêu, các chương trình đã đề ra trong những năm 2000 – 2005. Điển hình là phong trào thực hiện chương trình trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc góp phần nâng độ che phủ rừng Tuyên Quang đến hết năm 1999 lên 46,73%. Với thành tích này, 2 lâm trường Tuyên Bình và Yên Sơn đã vinh dự được Nhà nước, Chính phủ tặng thưởng Huân chương lao động hạng III. Thực hiện chương trình kiên cố hoá kênh mương nội đồng, công đoàn ngành nông nghiệp đã tổ chức động viên việc sử dụng xi măng địa phương, vật tư tại chỗ, lao động tại chỗ và huy động sức dân, đến năm 2000 toàn tỉnh đã xây dựng được 552km kênh mương kiên cố, góp phần đưa diện tích tưới tiêu được tăng thêm 25%. Hệ số sử dụng đất ở nhiều cánh đồng được nâng lên 2,5 lần; phong trào thi đua sử dụng giống mới có năng suất cao, thâm canh, tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Góp phần đưa sản lượng lương thực từ 19 vạn tấn năm 1995 lên 22,74 vạn tấn năm 1999. Ban quản lý công trình thuỷ nông Ngòi Là đã trở thành một trong năm đơn vị được Tỉnh đề nghị Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới.

Công đoàn Ngành giáo dục với phong trào "Dạy tốt, học tốt" cuộc vận động "Kỷ cương, tình thương, trách nhiệm"; "Giỏi việc trường, đảm việc nhà"; thực hiện "Một hội đồng hai nhiệm vụ"... Những năm qua, toàn ngành giáo dục đã đạt những kết quả cụ thể như năm 2000 toàn tỉnh đã có 71/145 xã, phường, thị trấn hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục cơ sở; 100% xã, phường, thị trấn tổ chức được đại hội giáo dục, đưa công tác giáo dục từng bước xã hội hoá. kết quả là đã có hơn 90% số phòng học trong toàn tỉnh đã được kiên cố hoá theo mô hình nền xi măng, mái lợp ngói, 242/320  Trường học thực hiện được cơ chế "Một hội đồng hai nhiệm vụ", Thời gian này Tỉnh đã mở được 469 lớp học bổ túc với 9.695 học sinh dự học. Giáo viên tham gia giảng dạy đã tự nguyện không hưởng thù lao giảm chi ngân sách nhà nước tới hàng tỉ đồng và góp phần khơi dậy truyền thống tốt đẹp của nền giáo dục cách mạng ở Tuyên Quang. Phong trào giáo dục những năm 1995 - 2000 là sự nối tiếp của 5 năm trước. Tính đến năm 2000, toàn ngành đã có 5 giáo viên giỏi cấp quốc gia, 997 chiến sĩ thi đua và giáo viên giỏi cấp tỉnh. 1742 giáo viên giỏi- chiến sĩ thi đua cấp huyện, thị và 5223 giáo viên đạt tiêu chuẩn thi đua cấp cơ sở. Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp học phổ thông bình quân đạt 94% hàng năm, 10 năm liên tục Tuyên Quang có học sinh giỏi cấp quốc gia. Năm 2000 ngành giáo dục Tuyên Quang đã có phong trào tập trung tự học tập để nâng cao trình độ, chuẩn hoá giáo viên làm cho công tác giáo dục Tuyên Quang phát triển bền vững. Đó cũng là kết quả từ cuộc vận động "Dân chủ hoá nhà trường" với hai nội dung chính: Dân chủ hoá trong quá trình đào tạo và dân chủ hoá trong quá trình quản lý trường học được duy trì tốt. Hàng năm 100% số trường đều tiến hành đại hội công nhân viên chức và thực hiện 5 công khai: công khai kế hoạch của nhà trường, công khai công tác tuyển sinh, các khoản thu chi trong trường, công khai chế độ chính sách đối với giáo viên và công khai đánh giá chất lượng học sinh. Vì vậy, cán bộ, giáo viên trong toàn ngành luôn luôn yên tâm, phấn khởi, tin tưởng, tận tuỵ với sự nghiệp giáo dục - đào tạo.

Với 80 cán bộ công nhân viên, Trường PTTH chuyên ban Tân Trào Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng Lao động đã đạt thành tích xuất sắc: 12 thầy cô giáo liên tục đạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp tỉnh. 5 tổ công đoàn liên tục đạt tập thể lao động xuất sắc, tỉ lệ học sinh tốt nghiệp lớp 12 hàng năm đều đạt 100%; 80% số học sinh tốt nghiệp thi đỗ vào các trường đại học và cao đẳng (trong đó có 10% được tuyển thẳng), 92 em đạt chuẩn học sinh giỏi cấp quốc gia; nhiều giáo viên đam mê với sự nghiệp, toàn tâm, toàn ý với sự nghiệp giáo dục vùng cao của Đảng. Những tấm gương tiêu biểu như: Cô giáo Phạm Thị Viết trường Trung học cơ sở Đại Phú (Sơn Dương), trong ba năm xoá mù chữ cho 109 học viên là người Cao Lan; Thầy giáo Phạm Ngọc Sĩ Hiệu trưởng trường cấp II, III Thái Hoà (Hàm Yên) đã kiên trì phong trào học bổ túc văn hoá suốt 10 năm tại xã.

Phong trào thi đua của Công đoàn ngành giáo dục đã có 363 tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa; 2318 người nhận “Huy chương vì sự nghiệp giáo dục”; 4 đồng chí được nhận Huân chương lao động hạng 3; 1 đồng chí nhận Huân chương lao động hạng 2 và nhiều đồng chí được nhận phần thưởng cao quý của Tổng liên đoàn, của Bộ giáo dục đào tạo và Liên đoàn lao động tỉnh.

Công đoàn Ngành Điện lực đã có nhiều hoạt động trong việc vận động công nhân, viên chức thi đua đạt nhiều thành tích, nổi bật là phong trào thi đua phát triển lưới điện nông thôn. Trong 3 năm (1998 - 2000) công nhân, viên chức đã xây dựng được 324km đường dây cao thế 10 và 35KV; 320km đường dây hạ thế; 138 trạm biến áp phân phối điện, đưa số xã phường, thị trấn có điện từ năm 1996 là 57 xã lên 98 xã vào năm 1999 (đạt 67,5%). Đây là thành tích nổi bật về phát triển lưới điện ở nông thôn mà công nhân, viên chức Ngành điện ở Tuyên Quang đã thực hiện làm cho mục tiêu "Núi rừng có điện thay sao" nhanh chóng trở thành hiện thực. Đặc biệt là sáng kiến áp dụng máy biến áp một pha vào các xã, thôn bản có điện áp 35KV/0,23KV đã giảm được chi phí, đạt hiệu quả kinh tế cao và lần đầu tiên được áp dụng ở Việt Nam.

Công đoàn các ngành, các cấp đã động viên công nhân, viên chức, lao động tham gia phong trào thi đua đạt nhiều kết quả như: Ngành Giao thông vận tải bảo đảm thông suốt tới tất cả 145 xã, phường trong toàn Tỉnh; Ngành Bưu điện bảo đảm yêu cầu "Nhanh chóng - chính xác, an toàn - tiện lợi - văn minh", giữ vững và phát triển truyền thống "Trung thành - dũng cảm - tận tuỵ - sáng tạo - tình nghĩa", thực hiện 100% số xã có thư báo trong ngày, cụm văn hoá xã, với phương tiện ngày càng hiện đại; Ngành Y tế thực hiện tốt 12 điều y đức và 9 chương trình y tế quốc gia, nâng cao trình độ chuyên môn. Từ năm 1996 đến năm 2000, ngành đã đào tạo được 4093 cán bộ y tế cơ sở, 91% trạm y tế xã có từ 3 đến 4 cán bộ. Năm 1996 có 6 bác sĩ tăng cường cho y tế xã, thì năm 2000 đã là 88 bác sĩ. Ngành Tài chính Ngân hàng phục vụ tốt đối tượng có nhu cầu vay vốn, từ năm 1996 đến tháng 5 năm 2000 đã có 162.168 lượt hộ nông dân được vay vốn với số tiền 387 tỉ 368 triệu đồng, cán bộ của ngành đã tự giác trả lại 6.000 lượt tiền thừa cho khách với tổng số tiền là 420.272.700 đồng.

Lực lượng Nữ công nhân viên chức - lao động chiếm 50% tổng số công nhân viên chức - lao động của tỉnh. Đa số chị em đã tham gia tích cực của các phong trào thi đua, nhất là phong trào "ba đảm đang" cũng như "Giỏi việc nước, đảm việc nhà".

Công nhân, viên chức và đoàn viên công đoàn xí nghiệp xi măng đã liên tục tăng năng suất từ 10.000 tấn năm 1990 lên 90.000 đến năm 2000; có sáng kiến sử dụng đất sét đồi thay thế đất sét ruộng để tiết kiệm diện tích canh tác cho nông dân. Đơn vị đã được tặng Huân chương lao động Hạng ba và được đề nghị tặng Huân chương lao động Hạng hai trong năm 2000.

Công nhân, lao động và công đoàn Ngành chè, trong những năm qua đã tạo nên nên những thay đổi cho 3.280 ha chè, tập trung ở Sơn Dương, Hàm Yên, Yên Sơn. Hàng vạn công nhân, lao động đã khắc phục khó khăn, thực hiện có hiệu quả 10 dự án về thâm canh, cải tạo phục hồi vườn chè đưa năng suất bình quân từ 3 tấn/1 ha năm 1996 lên 6 tấn/1 ha năm 2000. Điển hình là những đơn vị như: Đội Tân Yên công ty chè Tân Trào, Đội 13 công ty chè Mỹ Lâm, Đội 7, 10, 12 công ty chè Sông Lô... Nhiều cá nhân trở thành gương sáng như Nguyễn Thị Mai đội 10, Hồ Sỹ Trọng đội 7 công ty chè Sông Lô Nguyễn Công Lâm Đội 17 công ty chè Mỹ Lâm...

Năm 2000, năm có nhiều sự kiện quan trọng đối với toàn dân tộc như: 70 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; 25 năm ngày thống nhất đất nước; 55 năm ngày thành lập nước; 110 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Là năm tiến hành đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ VI. Trong không khí đó, đội ngũ công nhân, lao động Tuyên Quang càng phát huy khí thế cách mạng, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế xã hội. Trong không khí đó các cấp công đoàn Tuyên Quang đã có nhiều hoạt động mới, trước hết là trong công tác tuyên truyền giáo dục được đổi mới, với nhiều hình thức như: học tập, tập huấn, Hội thảo, tổ chức thi tìm hiểu, thi tuyên truyền viên, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhiều cuộc thi có đông đảo công nhân, viên chức tham gia như Cuộc thi tìm hiểu Bộ Luật Hình sự có tới 15.880 công nhân, viên chức tham gia; hơn 16.000 công nhân, lao động dự thi tìm hiểu kiến thức pháp luật và gia đình trong nữ công nhân, viên chức, lao động; 4.543 công nhân, lao động dự thi tìm hiểu về công nhân và công đoàn Việt Nam; 11.883 công nhân, lao động tìm hiểu Luật Phòng chống ma tuý. Ngoài ra có 748 bài tuyên truyền lao động và công đoàn trên đài phát thanh và truyền hình; 572 tin, bài về hoạt động công đoàn đăng trên các báo địa phương và Trung ương. LĐLĐ tỉnh đã phối hợp với Hội Nhà báo tổ chức cuộc thi viết về "Gương công nhân viên chức - lao động điển hình tiên tiến và hoạt động công đoàn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá Tỉnh Tuyên Quang" đã thu được nhiều kết quả... Các cấp công đoàn còn đẩy mạnh tuyên truyền về dân số kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, phòng chống HIV/AIDS, phòng chống tệ nạn xã hội trong công nhân viên chức - lao động.

Phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao đã được các cấp công đoàn phát triển rộng khắp, tạo nên khí thế phấn khởi và góp phần xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh trong công nhân viên chức - lao động. Nhiều ngành có đội văn nghệ nghiệp dư như: Bưu điện, Điện lực, Tài chính, Ngân hàng, Cục thuế, Xây dựng... các đội văn nghệ, thể dục thể thao của công đoàn cơ sở tham gia hội diễn văn nghệ, thể thao do tỉnh, khu vực và Tổng LĐLĐ Việt Nam tổ chức đều đạt thành tích cao.

Trong kế hoạch 5 năm (1996-2000) dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành tỉnh uỷ, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang đoàn kết một lòng, phát huy truyền thống cách mạng, ý chí tự lực, tự cường góp phần hoàn thành các mục tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội thực hiện một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trải qua thời gian đó, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã có những thay đổi quan trọng về số lượng và chất lượng. Sự thay đổi này là kết quả tất yếu của những thành tựu xây dựng, phát triển kinh tế đặc biệt là trong công nghiệp, dịch vụ. Cùng với nhân dân các dân tộc trong tỉnh, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức Liên đoàn Tuyên Quang luôn xứng đáng vai trò tiên phong trong công cuộc đổi mới và bước đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh nhà. Các cấp công đoàn đã tập hợp công nhân lao động thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng. Qua những thành tựu bước đầu trong công cuộc đổi mới, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn vững vàng bước vào giai đoạn mới, giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng Tuyên Quang ngày càng giàu đẹp.

2. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang từ năm 2001 đến nay.

Tháng 12 năm 2000 Đại hội đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XIII đã họp và xác định nhiệm vụ của đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang là: “phát huy sức mạnh của toàn đảng bộ và nhân dân trong tỉnh, khai thác hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh của địa phương để phát triển kinh tế…Trọng tâm là phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ…Giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội”. Đại hội đề ra một số chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội như GDP tăng trưởng bình quân 10%/năm, Công nghiệp - Xây dựng chiếm tỉ lệ 27%, Nông – Lâm nghiệp 42%, dịch vụ 34%, Lương thực đạt 490 người/năm…Những chỉ tiêu này phản ánh sự phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Tuyên Quang trong những năm tới.

Bước vào kế hoạch 5 năm (2001-2005), đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang có nhiều chuyển biến quan trọng. Đó cũng là kết quả quá trình 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới và bước đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Dưới sự lãnh đạo sát sao của tỉnh uỷ, của Tổng liên đoàn lao động việt nam, sự giúp đỡ cộng tác của chính quyền và toàn thể, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động tỉnh nhà không ngừng lớn mạnh về mọi mặt. Về số lượng đến năm 2001 Tuyên Quang có hơn 32000 công nhân, viên chức, lao động, trong đó khối hành chính sự nghiệp có hơn 17000 người, khu vực sản xuất kinh doanh có gần 15000 người. Đặc biệt khu vực ngoài quốc doanh đã có gần 4000 công nhân, lao động làm việc trong 200 doanh nghiệp khác nhau. Về chất lượng đại bộ phân công nhân, viên chức, lao động có phẩm chất, đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành tốt mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của nhà nước, có nhiều cố gắng khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.

Về tổ chức công đoàn đã tiếp tục được củng cố, kiệm toàn đáp ứng được yêu cầu của công nhân, viên chức, lao động. Đến tháng giêng năm 2001 công đoàn Tuyên Quang có hơn 27000 đoàn viên, tập trung chủ yếu ở khu vực kinh tế quốc doanh, khối hành chính sự nghiệp. Riêng khu vực ngoài quốc doanh số lượng đoàn viên chưa được 2000 người. Hệ thống tổ chức của công đoàn được kiệm toàn theo hướng tinh giãn và hoạt động có hiệu quả, bám sát được chức năng của mình.

Tháng 2 năm 2001, Ban chấp hành Liên đoàn lao động tỉnh đã họp và triển khai thực hiện nghị quyết đại hội tỉnh đảng bộ tỉnh lần thứ XIII tới các cấp công đoàn. Trong đó nêu rõ: phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên công nhân, viên chức, lao động hăng hái sản xuất thực hành tiết kiệm; Công nhân, viên chức, lao động phải đi đầu trong việc chấp hành chủ trương pháp luật của Đảng, Nhà nước; thích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Hội nghị cũng đề ra những biện pháp xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, trong tâm là phát triển đoàn viên, nhất là khu vực ngoài quốc doanh.

Để chỉ đạo kịp thời công đoàn các huyện, thị xã và ngành trực thuộc, Đảng đoàn và Thường trực liên đoàn lao động đã phân công các đồng chí thường vụ theo dõi và chỉ đạo hoạt động của các đơn vị. Ngoài ra Liên đoàn lao động còn thành lập các tiểu ban nhằm đánh giá, tổng kết những nội dung quan trọng của hoạt động công đoàn.

Năm 2002, nhiều công trình kinh tế trọng điểm đã được trung ương đầu tư, xây dựng trên đất Tuyên Quang. Đó là dự án nhà máy thủy điện Na Hang, dự án khôi phục mở rộng quốc lộ 2 và nhiều công trình khác. Các dự án trên đã thu hút hàng vạn công nhân, lao động ở các nơi khác lên làm việc tại Tuyên Quang. Đây là một dịp để đội ngũ công nhân, viên chức, lao động học hỏi trao đổi kinh nghiệm làm việc và cũng tăng cường thêm tiềm lực kinh tế cho tỉnh nhà.

Năm 2001, 2002 hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã bám sát được những yêu cầu chủ yếu của công nhân, viên chức, lao động, việc thực hiện các chức năng ngày càng có hiệu quả. Trong công tác tuyên truyền, giáo dục các cấp công đoàn đã tổ chức 95% công nhân lao động học tập nghị quyết của Đảng, của Tổng liên đoàn. Đặc biệt đã phổ biến 5 bài chính trị cơ bản cho hầu hết các nhà máy, xí nghiệp, Nông, Lâm, Trường. Hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao ngày càng phong phú và đa dạng. Phối hợp với các cơ quan như đài truyền hình, phát thanh, sở văn hoá thông tin, đoàn thanh niên. Công đoàn đã tổ chức được 89 chương trình phát thanh truyền hình, 108 tin bài đăng trên các báo trung ương và địa phương, tổ chức được 617 cuộc liên hoan văn nghệ.

Công tác chăm lo, bảo vệ đờì sống cho công nhân, viên chức, lao động đã có nhiều chuyển biến tích cực. Nhận thức rõ đây là yêu cầu cấp bách của người lao động, các cấp công đoàn phối hợp với chuyên môn thực hiện tốt các chính sách về tiền lương, tiền thưởng, quỹ phúc lợi xã hội, hạn chế những tiêu cực có thể xẩy ra.

Các hoạt động xã hội của công đoàn đã đi vào chiều sâu, như chăm sóc, giúp đỡ gia đình chính sách, nuôi dưỡng bà mẹ việt nam anh hùng, ủng hỗ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt, giúp đỡ công nhân, viên chức, lao động nghèo, khó khăn được đông đảo công nhân, lao động hưởng ứng. Đến cuối năm 2002, các hoạt động xã hội đã xây dựng được số tiền gần 7 tỷ đồng, được các cấp công đoàn sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng.

Công tác xây dựng Đảng, Nhà nước và tổ chức công đoàn vững mạnh đã trỏ thành nhiệm vụ trọng tâm của công đoàn các cấp. Dưới sự chỉ đạo của tỉnh uỷ, Liên đoàn lao động đã phối hợp với các ngành, các cấp chính quyền làm tốt công tác quan trọng này. Trong thời gian này các cấp công đoàn đã giới thiệu cho các cấp uỷ Đảng xem xét, kết nạp hơn 1200 Đảng viên là những công nhân, viên chức, lao động ưu tú. Để xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh, Liên đoàn lao động tỉnh đã triển khai thực hiện nghị quyết 3b của Tổng Liên đoàn lao động việt nam về việc đẩy mạnh phát triển đoàn viên. Kết quả là trong năm 2002 các cấp công đoàn đã kết nạp được 1027 đoàn viên, phát triển thêm 28 công đoàn cơ sở. Trong đó khu vực ngoài quốc doanh phát triển được 22 công đoàn cơ sở và kết nạp 899 đoàn viên.

Bước vào năm 2003 đội ngũ công nhân, viên chức và tổ chức công đoàn Tuyên Quang tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế do Đảng, Nhà nước đề ra. Đây cũng là năm tiến hành Đại hội công đoàn các cấp, tiến tới đại hội IX công đoàn việt nam. Tháng 2 năm 2003 Ban chấp hành Liên đoàn lao động tỉnh đã họp và đề ra những nội dung hoạt động của các cấp công đoàn:

  • Tiếp tục đổi mới và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục; xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh.
  • Tích cực tham gia xây dựng, quản lý và kiểm tra, giám sát việc thi hành chính sách, pháp luật, chế độ liên quan đến người lao động.
  • Tiếp tục tổ chức các phong trào hành động cách mạng có hiệu quả, rộng khắp.
  • Tăng cường phát triển đoàn viên đổi mói phương thức, nội dung hoạt động công đoàn.
  • Vận động công nhân, viên chức, lao động và đoàn viên công đoàn tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh.

Những nội dung này đã được các cấp công đoàn triển khai và thực hiện có hiệu quả, góp  phần động viên công nhân, viên chức, lao động tham gia sôi nổi các phong trào thi đua. Hoàn thành kế hoạch sản xuất của đơn vị.

          Quán triệt sự chỉ đạo của Tổng liên đoàn lao động việt nam về tổ chức đại hội công đoàn các cấp, tiến tới đại hội lần thứ IX công đoàn việt nam. Trong 6 tháng đầu năm 2003 Tuyên Quang đã hoàn thành đại hội công đoàn cấp cơ sở, cấp trên cơ sở, các công đoàn huyện, thị xã và ngành trực thuộc. Qua đó đổi mới một phần nhân sự của công đoàn các cấp, bổ sung thêm nhiều cán bộ công đoàn xuất thân từ công nhân và người dân tộc.

Tháng 7/2003 Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã quyết định cử đồng chí Lưu Bích Thuận làm Chủ tịch LĐLĐ Tuyên Quang thay cho đồng chí Vũ Văn Nhân đi nhận công tác khác. Ban chấp hành Liên đoàn lao động tỉnh cũng đã bầu bổ sung một số đồng chí vào Ban thường vụ, Uỷ ban kiểm tra và các đơn vị trực thuộc Liên đoàn lao động.

Ngày 8 tháng 8 năm 2003 Đại hội đại biểu Công đoàn Tỉnh Tuyên Quang lần thứ XIII được tiến hành, tham dự đại hội có 170 đại biểu đại diễn cho hơn 33000 công nhân, viên chức, lao động. Với chủ đề là: "Đoàn kết, Trí tuệ, Dân chủ, Đổi mới". Đại hội đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Công đoàn toàn tỉnh lần thứ XII và đề ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu hoạt động công tác công đoàn nhiệm kỳ XIII (2003- 2008). Đại hội đã bầu đồng chí Lưu Bích Thuận làm Chủ tịch và các đồng chí Đặng Văn Bé, Ngô Đức Tuấn làm Phó Chủ tịch LĐLĐ Tuyên Quang.

Từ sau Đại hội Công đoàn, Ban chấp hành Liên đoàn Lao động Tuyên Quang đã triển khai xây dựng và thực hiện Đề án củng cố bộ máy tổ chức từ tỉnh đến cơ sở. Công đoàn các huyện, thị, ngành đã đi vào hoạt động triển khai các nghị quyết, xác định rõ trách nhiệm quản lý cơ sở giữa công đoàn cấp huyện, thị với công đoàn các ngành của địa phương để phối hợp hành động, khắc phục tình trạng chỉ đạo chồng chéo, hướng các hoạt động về cơ sở, phát triển đoàn viên và xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh. Nhân dịp này LĐLĐ Tỉnh đã khảo sát thực trạng đội ngũ công nhân viên chức - lao động khu vực sản xuất kinh doanh, từ đó theo dõi, quản lý đoàn viên và xác định căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo, nâng cao trình độ cho công nhân viên chức- lao động Từ năm 2003 LĐLĐ đã tổ chức 34 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho 3.074 lượt cán bộ dự học, 8 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho 566 cán bộ thanh tra nhân dân.

Việc tập trung xây dựng, phát triển tổ chức công đoàn trong tất cả các thành phần kinh tế luôn được quan tâm. Đến tháng 8 - 2003 số đoàn viên công đoàn trong toàn tỉnh đã lên đến 33.881 người, trong đó có 3.708 đoàn viên hoạt động ở 49 công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh. Đến cuối năm 2003 Tuyên Quang đã có 60 doanh nghiệp ngoài quốc doanh đủ điều kiện thành lập công đoàn cơ sở.

Phong trào thi đua lao động sản xuất đã trở thành phong trào cách mạng của công nhân, viên chức, lao động. Kết quả là đến năm 2003 đã có 1327 giải pháp kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, làm lợi 5,375 tỷ đồng; hàng chục nghìn công nhân lao động đạt danh hiệu lao động giỏi năm; 2 tập thể được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng Lao động. 16 tập thể và cá nhân được tặng Huân chương lao động; 4 tập thể được tặng cờ thi đua của Chính phủ; 454 người đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua các cấp và hàng nhiều người khác được nhận phần thưởng của Tổng liên đoàn, Uỷ ban nhân dân và Liên đoàn lao động tỉnh trao tặng.

Tuy nhiên phong trào công nhân, hoạt động công đoàn cũng có những hạn chế như: Một số Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của công đoàn cấp trên chưa được tuyên truyền, phổ biến kịp thời đến công nhân viên chức, lao động. Hình thức tuyên truyền chậm đổi mới chưa phù hợp từng đối tượng, từng loại hình cơ sở. Một bộ phận nhỏ công nhân, viên chức, lao động ít quan tâm đến chính trị, cá biệt có người còn vi phạm pháp luật, tệ nạn xã hội.

Hình thức thi đua chưa thực sự đổi mới, một số đơn vị chưa chú trọng động viên khen thưởng công nhân trực tiếp sản xuất; phong trào thi đua trong khu vực hành chính sự nghiệp chưa rõ nét; việc phát hiện, tôn vinh những người lao động sản xuất kinh doanh giỏi trong các thành phần kinh tế còn hạn chế.

Hoạt động thanh tra nhân dân trong các cơ quan, đơn vị còn lúng túng, hình thức; cuộc vận động "thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống các biểu hiện tiêu cực, sách nhiễu, phiền hà, chống các tệ nạn xã hội" chưa phát triển sâu rộng, kết quả còn hạn chế.

Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở thông qua việc mở đại hội công nhân viên chức, hội nghị cán bộ công chức ở một số cơ quan, đơn vị triển khai mang tính hình thức, chất lượng chưa cao...

Tháng 11 năm 2003 Đại hội Công đoàn Việt nam lần thứ IX đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của phong trào công nhân và hoạt động công đoàn trong giai đoạn mới. Với khẩu hiệu “Đoàn kết, trí tuệ, đổi mới, dân chủ” Đại hội đã mở ra thời kỳ phát triển mới của phong trào công nhân và hoạt động Việt nam.

Quán triệt nghị quyết Đại hội Công đoàn Việt nam lần thứ IX, Ban chấp hành Liên đoàn lao động Tuyên Quang đã xác định nhiệm vụ trọng tâm của các cấp công đoàn trong tỉnh là: tích cực phát triển đoàn viên đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động công đoàn, phát động phong trào hoạt động cách mạng, dộng viên đông đảo công nhân, viên chức, lao động tham gia. Đầu năm 2004 LĐLĐ Tỉnh đã có văn bản hướng dẫn các cấp công đoàn tổ chức phong trào thi đua, chỉ đạo việc đăng ký đề tài nghiên cứu, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, đăng ký hạng mục công trình, sản phẩm chào mừng 75 năm ngày thành lập công đoàn Việt Nam.

Nội dung và hình thức thi đua được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của từng đơn vị. Tiêu biểu là phong trào "Lao động giỏi, lao động sáng tạo"; Phong trào "Xanh - sạch - đẹp, đảm bảo ATVSLĐ" trong các cơ sở sản xuất kinh doanh; phong trào "Thi đua liên kết phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn" của Công đoàn Ngành nông nghiệp; Phong trào học tập nâng cao trình độ, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức "Trung thành, sáng tạo, tận tuỵ; gương mẫu" của Công đoàn viên chức; Phong trào "Thi đua dạy tốt, học tốt", "Thi đua thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục" của Công đoàn giáo dục, "Thực hiện 12 điều y đức" của Công đoàn Y tế, "Giới việc nước, đảm việc nhà" trong nữ công nhân, viên chức, lao động... Các phong trào do công đoàn phát động luôn tạo khí thế cách mạng của quần chúng, động viên công nhân, viên chức vượt qua mọi khó khăn hoàn thành tốt các mục tiêu đã đề ra.

Từ trong phong trào thi đua, đã xuất hiện nhiều kết quả về lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến kỹ thuật. Theo thống kê chưa đầy đủ năm 2004 có trên 300 đề tài được đăng ký, gần 300 sáng kiến đã được áp dụng trong sản xuất công tác, làm lợi hàng tỷ động. Chỉ riêng công nhân viên chức - lao động huyện Sơn Dương có 17 sáng kiến giảng dạy trong nhà trường, nhiều sáng kiến cải tiến lề lối làm việc, 23 sáng kiến cải tiến kỹ thuật đã làm lợi hàng tỉ đồng. Nhiều đề tài đã được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất nông lâm nghiệp như việc nhân giống cây keo lai bằng phương pháp giâm hom; lai tạo đàn bò địa phương để nâng thể trọng lên 200kg một con; áp dụng phương pháp mới cải tạo giống đàn bò sữa, bò thịt nhập ngoại với tỉ lệ nuôi sống đạt 99,33%; phương pháp thụ tinh bằng tinh đông nhập ngoại giống bò cao sản của Mỹ, đạt tỉ lệ thụ thai 99%.

Liên đoàn Lao động tỉnh đã chỉ đạo các cấp công đoàn vận động các doanh nghiệp thành lập 17 tổ cơ khí sửa chữa và duy trì 47 lò vôi trên địa bàn huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá để sửa chữa máy cày, máy bừa và sản xuất vôi phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Tháng 7 năm 2004 Liên đoàn lao động tỉnh đã có sự thay đổi nhân sự lãnh đạo chủ chốt, đồng chí Lưu Bích Thuận chủ tịch Liên đoàn lao động được Ban thường vụ tỉnh Uỷ điều nhận công tác khác. Đồng chí Đặng Văn Bé Phó chủ tích thường trực đã phụ trách tạm thời Liên đoàn lao động tỉnh. Tháng 11 năm 2005, đồng chí Triệu Kim Long Uỷ viên ban chấp hành tỉnh uỷ, Uỷ viên ban chấp hành Tổng liên đoàn lao động Việt nam được cử làm Chủ tịch Liên đoàn lao động tỉnh Tuyên Quang.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban thường vụ Tỉnh uỷ, LĐLĐ Tỉnh đã phát động trong các cấp công đoàn, đơn vị đăng ký, đỡ đầu các trường học. Kết quả có 171 cơ quan, đơn vị nhận đỡ đầu 140 trường vùng sâu, vùng xa trong tỉnh; tổ chức thăm và tặng quà các trường nhân dịp khai giảng với tổng giá trị lên đến hơn 100 triệu đồng. Liên đoàn Lao động Huyện Sơn Dương, Yên Sơn và Công đoàn các cơ quan Dân Chính Đảng vận động công nhân viên chức - lao động đóng góp mua xe đạp và đồ dùng học tập cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn với mức 10.000 đồng một người. Đến tháng 11 năm 2004, Liên đoàn lao động các huyện Sơn Dương ủng hộ 10 triệu đồng, Yên Sơn 13.380.000 đồng, Công đoàn khối dân Chính đảng là 2 triệu...

Việc phát triển đoàn viên công đoàn thời kỳ 2003 - 2008 được đẩy mạnh. Trong đó chú ý việc thành lập công đoàn cơ sở trong các thành phần kinh tế, nhất là thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Trong 11 tháng của năm 2004 đã có 16 công đoàn cơ sở được thành lập, 840 đoàn viên mới được kết nạp nâng số đoàn viên năm 2004 lên 33.931 người. Chất lượng cán bộ công đoàn cũng được nâng lên, trong năm 2004 LĐLĐ Tỉnh đã cử 7 đồng chí cán bộ chủ chốt đi tiếp thu Nghị quyết Đại hội lần thứ IX Công đoàn Việt Nam, 6 cán bộ đi tập huấn nghiệp vụ theo chuyên đề, 16 cán bộ đi học lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước và 1 đồng chí vào học tại trường Đại học Công đoàn. LĐLĐ đã mở nhiều lớp bồi dưỡng tập huấn nghiệp vụ công đoàn cho 1.785 cán bộ công đoàn cơ sở và 104 cán bộ làm công tác kiểm tra. Ngoài ra công đoàn các cấp còn tham gia xây dựng Đảng, Chính quyền Nhà nước trong sạch, vững mạnh thể hiện chức năng của công đoàn trong thời kỳ mới.

Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong năm 2004 đã góp phần quan trọng vào những thành tựu của toàn kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong đó GDP tăng 11%, các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đều vượt mức kế hoạch.

Năm 2005 là năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIII và là năm có nhiều ngày kỷ niệm lớn như: kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Đảng, 30 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, 60 năm ngày thành lập Nước. Ngay từ đầu năm, LĐLĐ Tỉnh đã phát động phong trào thi đua lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn. Cán bộ, công nhân, lao động trong tỉnh tích cực tham gia. Điểm nổi bật của phong trào thi đua lần này là phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Kết quả đã có 20 đề tài nghiên cứu, 57 sáng kiến hợp lý hoá sản xuất làm lợi trên một tỉ đồng. Điển hình như sáng kiến tăng diện tích lọc bùn nâng cao hiệu suất thu hồi đường của Công ty Đường Sơn Dương làm lợi 200 triệu đồng cho một vụ ép mía; sáng kiến dùng vật liệu tận dụng tự chế tạo và lắp đặt cần cẩu đặc chủng cho việc bốc xếp sỏi của Công ty cổ phần Hợp nhất Thị xã Tuyên Quang, đã tăng năng suất lao động lên 20 lần làm lợi 80 triệu đồng một năm.

Cùng với phong trào thi đua lao động sản xuất là thực hiện nhiệm vụ xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh. Năm 2005 LĐLĐ Tỉnh đã củng cố công tác tổ chức, kiện toàn bộ máy, đẩy mạnh công tác phát triển đoàn viên theo chương trình phát triển 1 triệu đoàn viên công đoàn theo nghị quyết Đại hội IX Công đoàn Việt nam. Trong 6 tháng cuối năm 2005, các cấp Công đoàn đã kết nạp được 962 đoàn viên. Riêng khu vực ngoài quốc doanh có 13 người, ở xã, phường, thị trấn được 235 người, nâng tổng số đoàn viên toàn tỉnh lên 33.487 người.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ công đoàn được quan tâm 1 cán bộ được cử đi học lớp lý luận chính trị cao cấp, 3 công nhân được cử đi đại học công đoàn hệ chính quy, 14 lớp tập huấn nghiệp vụ công tác công đoàn đã được mở với sự tham dự của 1.635 cán bộ công đoàn cơ sở.

Năm 2005 Tuyên Quang hoàn thành tốt các mục tiêu kinh tế xã hội như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế, sản lượng lương thực, sản xuất công nghiệp, thu ngân sách... đều tăng đáng kể so với năm 2004; kinh tế có sự thay đổi, đang chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, giảm dần tỉ trọng nông nghiệp, lâm nghiệp. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế đã được quan tâm nhiều hơn, số trường học, cơ sở y tế đạt chuẩn quốc gia tăng nhiều so với năm 2004.

Sản xuất công nghiệp đang khuyến khích thu hút đầu tư của tỉnh. Các dự án xây dựng nhà máy chế biến thức ăn gia súc với công suất 15.000 tấn năm; cải tạo dây chuyền sản xuất xi măng từ công nghệ lò đứng sang công nghệ lò quay đưa công suất lên 27 vạn tấn/năm; khởi công xây dựng Nhà máy xi măng Sơn Dương 35 vạn tấn/năm và nhà máy sữa với quy mô 124,24 tỉ tiền vốn; đẩy mạnh tiến độ thi công nhà máy xi măng Tràng An, khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm đang được thực hiện. Đặc biệt nhà máy thuỷ điện Na Hang đang đi vào giai đoạn cuối, dự án xây dựng nâng cấp quốc lộ 2A đã được hoàn thành.

Năm 2006 phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Tuyên Quang tập trung vào việc thực hiện nghị quyết Đại hội Công đoàn tỉnh lần thứ XIII trong hoàn cảnh có nhiều thuận lợi. Đó là nhân dân các dân tộc Tuyên Quang đang thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam; năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIV Đảng bộ Tỉnh Tuyên Quang lần thứ XIV.

Phát huy thuận lợi, các cấp công đoàn đẩy mạnh và phát triển sâu rộng trong công nhân viên chức - lao động. Phong trào thi đua lao động, sản xuất. Các cấp công đoàn đã phối hợp với chính quyền phát động phong trào thi đua với những nội dung, hình thức phong phú, thiết thực và đa dạng, phù hợp với từng địa phương, từng ngành nghề, từng đơn vị. Gắn các phong trào thi đua do công đoàn và ngành phát động như: "Lao động giỏi, lao động sáng tạo"; "Năng suất, chất lượng, hiệu quả"; "Xanh - sạch - đẹp, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động" "Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí"; Xây dựng đội ngũ công chức "Trung thành, sáng tạo, tận tuỵ, gương mẫu"; "Thi đua dạy tốt, học tốt"; "Thực hiện 12 điều y đức"...

Quán triệt chỉ thị của Ban Bí thư trung ương Đảng về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đực Hồ Chí Minh”, Liên đoàn lao động Tuyên Quang 100% công đoàn cơ sở với hơn 90% công nhân, viên chức, lao động tham gia cuộc vận động quan trọng này. Công đoàn các huyện, thị xã, ngành đã chủ động phối hợp với các trung tâm chính trị, tổ chức 25 lớp nguyên cứư về Chủ tịch Hồ Chí Minh cho hàng ngàn cán bộ, công nhân, viên chức, lao động học tập, từ đó phấn đấu làm theo tấm gương đạo đức của người.

Thực hiện nghị quyết 4b của Ban chấp hành Tổng liên đoàn lao động Việt nam, các cấp công đoàn Tuyên Quang đã chủ động phối hợp với chuyên môn, mở các lớp đào tạo và đào tạo lại cho công nhân, viên chức, lao động. Kết quả đến cuối năm 2006 đã có hơn 2000 lượt người học bổ túc văn hoá, 5786 lượt người học tập nâng cao trình độ học vấn và 4108 lượt người học tập nâng cao tay nghề. Trên cơ sở đó tổ chức Liên đoàn Tuyên Quang được củng cố, phát triển, đặc biệt là trong công tác xây dựng và phát triển đoàn viên, đã có 114 tổ chức công đoàn cơ sở được thành lập, kết nạp thêm được 2.278 đoàn viên và 34 đoàn viên nghiệp đoàn, nâng tổng số công đoàn cơ sở toàn tỉnh lên 899 đơn vị, Trong đó có 59 công đoàn cơ sở thuộc khu vực ngoài quốc doanh. LĐLĐ đã tổ chức khảo sát 264 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhằm tuyên truyền phát triển đoàn viên và thành lập công đoàn cơ sở.

Công tác bồi dưỡng, đào tạo được triển khai đều đặn, đã mở 12 lớp tập huấn nghiệp vụ công đoàn cho 1.068 lượt cán bộ tham dự, 1 lớp tập huấn về Luật bảo hiểm xã hội cho 58 cán bộ. Liên đoàn Lao động tỉnh phối hợp với công đoàn viên chức Việt Nam tổ chức lớp tập huấn nghiệp vụ cho 30 cán bộ Công đoàn, viên chức thuộc 12 tỉnh miền núi phía Bắc; phối hợp với Trường Đại học Công đoàn mở lớp tập huấn nghiệp vụ cho 52 cán bộ công đoàn chuyên trách.

Thực hiện sự chỉ đạo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Liên đoàn Lao động Tỉnh đã khảo sát và tổ chức Hội nghị tổng kết mô hình tổ chức và hoạt động công đoàn cấp huyện. Hội nghị đã đánh giá trong thời gian qua các Liên đoàn Lao động huyện, thị xã đã có nhiều cố gắng trong việc chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ, phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong hệ thống chính trị ở địa phương; đẩy mạnh các phong trào thi đua trong công nhân viên chức - lao động, quan tâm chăm lo vật chất, tinh thần, bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng cho người lao động.

Bước vào năm 2007 Công đoàn các cấp tiếp tục hưởng ứng cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá mới, đã tuyên truyền vận động đa số công nhân, viên chức, lao động tham gia. Phối hợp với sở văn hoá thông tin và các đoàn thể khác, Liên đoàn lao động tỉnh đã xây dựng các tiêu chí, bảng điểm nhằm đánh giá các đơn vị xây dựng được đời sống văn hoá mới. Kết quả đã có 770 công đoàn cơ sở đạt danh hiệu đơn vị có đời sống văn hoá. Trong 2 năm (2006-2007), nhằm đưa công tác tuyên truyền, giáo dục vào chiều sâu có hiệu quả. Liên đoàn lao động đã có kế hoạch phối, kết hợp với các cơ quan, ban ngành, đoàn thể tổ chức ký kết với 20 đơn vị của tỉnh và các công đoàn ngành trung ương. Năm 2007 Liên đoàn lao động đã phát hành bản tin Lao động – Công đoàn, xây dựng chương trình phát thanh truyền hình lao động – công đoàn một cách khoa học, tổ chức việc nghiên cứu, biên soạn cuốn “lịch sử phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang”.

Có thể nói trong 2 năm (2006 – 2007), phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Tuyên Quang có những bước phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Về số lượng từ hơn 27.000 đoàn viên năm đầu tái lập tỉnh đã tăng lên 35.000 đoàn viên vào cuối năm 2006. Về chất lượng, đã có những thay đổi toàn diện  theo kịp với phong trào công nhân, công đoàn cả nước. Về cơ bản, sự phát triển của đội ngũ công nhân, tổ chức công đoàn Tuyên Quang trong 10 năm qua đều gắn với sự phát triển mọi mặt của Tỉnh Tuyên Quang.

Phong trào thi đua lao động sáng tạo trong công nhân viên chức - lao động là một trong những hoạt động của công đoàn Tuyên Quang. Thông qua phong trào này mà đội ngũ công nhân, viên chức - lao động phát huy được tính tự chủ, năng động, sáng tạo hăng hái thi đua học tập, lao động sản xuất và công tác. Đặc biệt từ Chỉ thị Bộ Chính trị về đổi mới công tác thi đua khen thưởng trong giai đoạn mới, công tác thi đua khen thưởng được duy trì và có hiệu quả.

Liên đoàn Lao động Tuyên Quang đã phát động và chỉ đạo phong trào thi đua đều khắp trong các cấp công đoàn, bảo đảm cho mọi công nhân viên chức - lao động đều có thể tham gia, đều có môi trường tốt để rèn luyện và trưởng thành. Những nội dung thi đua đều hướng tới "người người thi đua, ngành ngành thi đua". Trong đó có những phong trào hiệu quả như "Kỷ cương, tình thương, trách nhiệm", "Một hội đồng hai nhiệm vụ"  của công đoàn ngành giáo dục đào tạo; phong trào thi đua "Lao động giỏi, lao động sáng tạo" nâng cao "chất lượng, hiệu quả" của công đoàn khối hành chính sự nghiệp; phong trào "xanh, sạch, đẹp đảm bảo an toàn vệ sinh lao động" trong khối sản xuất kinh doanh.

Ở các công trình trọng điểm, Liên đoàn lao động tỉnh đã phối hợp với công đoàn xây dựng việt nam, công đoàn Tổng công ty Sông Đà tổ chức các phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, lao động có hiệu quả và chất lượng phấn đấu hoàn thành các hạng mục trên công trường xây dựng nhà máy thuỷ điện Na Hang. Phong trào này đã được 100% cán bộ, công nhân, kỹ sư trên công trường tham gia, góp phần hoàn thành các hạng mục đúng với thời gian đảm bảo chất lượng. Qua phong trào này có hàng trăm cán bộ công nhân, kỹ sư được Tổng liên đoàn lao động việt nam, Liên đoàn lao động tỉnh khen thưởng. Công trình xây dựng nhà máy thuỷ điện Na Hang là kết quả sự phối hợp công tác vận động quần chúng của các cấp công đoàn Tuyên Quang.

Phong trào công nhân, công đoàn đã củng cố, nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần cách mạng, lao động sáng tạo, ý thức tự lực tự cường, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Trong phong trào thi đua có nhiều cán bộ công nhân, viên chức - lao động phát huy được tính chủ động sáng tạo, luôn vượt lên qua khó khăn, khai thác mọi tiềm năng, tìm ra những giải pháp kỹ thuật, góp phần giải quyết những vướng mắc trong quá trình sản xuất kinh. Phong trào thi đua đã làm cho năng lực làm chủ đất nước của công nhân, viên chức - lao động được nâng lên, là nhân tố quyết định bảo đảm cho tổ chức công đoàn không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng. Thông qua đó lợi ích chính đáng của người lao động được bảo vệ góp phần hoàn thiện chế độ chính sách  cho người lao động.

     Trong những năm qua, được sự quan tâm của Tỉnh uỷ, của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, các cấp công đoàn Tuyên Quang đã nỗ lực phấn đấu thực hiện các mục tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội. Hoạt động công đoàn đã bám sát chương trình, mục tiêu, nhiệm vụ chính trị - kinh tế trong đó : công tác tuyên truyền giáo dục được đổi mới về nội dung, hình thức; phong trào thi đua được duy trì và phát triển trong các thành phần kinh tế; công tác chăm lo đời sống và bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động được chú ý. Việc triển khai chương trình nhà ở “Mái ấm công đoàn” bước đầu có kết quả tốt, cuối năm 2007, các cấp công đoàn đã làm được 54 ngôi nhà tình nghĩa trị giá hơn 2 tỷ đồng, góp phần giảm bớt khó khăn cho một bộ phận công nhân vùng sâu, vùng xa.

Từ phong trào công nhân, viên chức, lao động đã có những điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt xuất hiện ngày càng nhiều tiêu biểu cho truyền thống cách mạng. Thể hiện bản chất của giai cấp công nhân hiện đại. Nhiều tập thể, cá nhân đã được Nhà nước và TLĐ khen thưởng. Đó là 33 tập thể cá nhân được tặng thưởng Huân chương lao động các hạng; 653 cá nhân đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua các cấp. Tiêu biểu cho sự phát triển của phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang là: cán bộ đoàn viên công đoàn ngành giáo dục - đào tạo, với những sáng kiến làm đồ dùng dạy học, cải tiến phương pháp dạy, nâng cao chất lượng dạy và học; ngành y tế với sáng kiến quản lý bệnh nhân "sử dụng hệ quản trị cơ sở dữ liệu ACCESS để quản lý hồ sơ bệnh án bệnh nhân". Những bài thuốc chữa bệnh ECZEMA, bệnh sỏi thận, điều trị bệnh rối loạn lipít máu của các bác sĩ Bệnh viện Y học dân tộc tỉnh; giải pháp ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất nông nghiệp với đề tài "Sản xuất trình diễn lúa lai" thuộc Trại sản xuất giống cây trồng Đồng Thắm; giải pháp ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật của Công ty chè Mỹ Lâm về trồng chè, trồng giống mới LDP2 theo quy trình thâm canh cao, nhờ đó rút ngắn thời gian trồng chè kiến thiết cơ bản từ 3 năm xuống còn 1 năm.

Phong trào thi đua lao động sáng tạo do các cấp công đoàn chủ trì đã có những tập thể, cá nhân xuất sắc góp phần vào việc xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức ngày càng vững mạnh. Tiêu biểu cho đội ngũ công nhân, viên chức, lao động đó là 765 người có sáng kiến, hợp lý hoá, giải pháp hữu ích. Trong đó công nhân lao động có 222 người đã hoàn thành 303 sáng kiến; cán bộ làm công tác quản lý 351 người; cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học là 192 người có 20 người được tặng bằng lao động sáng tạo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Nổi bật là những cá nhân như đồng chí Nguyễn Trọng Phụng (Phó Giám đốc - Chủ tịch Công đoàn Điện lực Tỉnh); Đinh Đức Thiện (Công ty Đường Tuyên Quang); Bùi Hưng Thịnh (Phó Giám đốc Công ty Đường Sơn Dương); Nguyễn Phú Phượng (Điện lực tỉnh); Kỹ sư giao thông Nguyễn Thanh Chanh (Công ty cổ phần tư vấn xây dựng)...

Trải qua những năm tháng thực hiện bước đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá công nhân, viên chức và tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã có 7.052 sáng kiến cải tiến hợp lý hoá, góp phần quan trọng cho sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững, chuyển  dịch cơ cấu nông - lâm nghiệp sang cơ cấu công - nông lâm nghiệp, đưa tỉnh phát triển đi lên theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

     Tuy nhiên, trong thời gian qua phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Tuyên Quang vẫn còn những nhược điểm cần phải khắc phục. Như công tác tuyên truyền giáo dục chưa sâu, một số Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa được tuyên truyền, phổ biến kịp thời đến công nhân viên chức - lao động; hình thức tuyên truyền chậm đổi mới, chưa phù hợp với đặc điểm vị trí của từng đơn vị. Bên cạnh đó hoạt động của các cấp công đoàn chưa thật sự đều tay, phong trào thi đua chưa thực sự mới; việc thanh tra, kiểm tra và tổng kết phong trào chưa kịp thời; việc nhân rộng các điển hình tiên tiến còn nhiều hạn chế.

    Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở còn nhiều lúng túng, còn mang tính hình thức, qua loa chiếu lệ. Công tác phát triển đoàn viên và tổ chức công đoàn ở khu vực sản xuất ngoài quốc doanh còn rất nhiều lúng túng, chưa vận động được đa số công nhân, lao động ở khu vực này tham gia tổ chức công đoàn.

***

Giai đoạn lịch sử từ năm 1976 trở lại đây, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang không ngừng lớn mạnh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp Ban chấp hành Đảng bộ Tuyên Quang, phong trào công nhân và hoạt động công đoàn tỉnh nhà luôn thể hiện được vị trí, vai trò, chức năng của mình. Góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội đưa Tuyên Quang từng bước phát triển xứng đáng với truyền thống cách mạng, thủ đô kháng chiến của nước Việt nam dân chủ Cộng hoà.

Trong 30 năm qua, phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã trải qua những giai đoạn, những bước chuyển mình khác nhau. Nhưng thể hiện sự đoàn kết, thống nhất, ý chí tự lực tự cường, vươn lên khắc phục khó khăn thử thách hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và đồng bào các dân tộc trong tỉnh giao phó. Phong trào công nhân và hoạt động công đoàn Tuyên Quang đã thu được những thành tựu to lớn, những bài học kinh nghiệm quan trọng. Đó là vốn quý báu để đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang tiếp tục phát triển trong các giai đoạn cách mạng tiếp theo.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                              KẾT LUẬN 

 

Hơn một thế kỷ đã trôi qua kể từ khi những bộ phận công nhân, lao động đầu tiên xuất hiện ở Tuyên Quang, mở đầu lịch sử hào hùng, anh dũng của đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn tỉnh nhà. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang không ngừng lớn mạnh, có những cống hiến to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xây  dựng quê hương ngày một giàu đẹp.

Trải qua các thời kỳ lịch sử: Thời kỳ trước Cách mạng tháng tám; Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; Thời kỳ xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam; Thời kỳ cả nước đi lên CNXH, đặc biệt là hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới và bước đầu Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức Công đoàn Tuyên Quang luôn là lực lượng tiên phong, đi đầu trong các cuộc vận động cách mạng, góp phần to lớn cùng với nhân dân các dân tộc trong tỉnh, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá mà Đảng, nhà nước đã đề ra.

Trải qua gần một thế kỷ đấu tranh cách mạng, xây dựng và trưởng thành về mọi mặt, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang có một số đặc điểm nổi bật, để lại những bài học kinh nghiệm quý báu cho nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam trong giai đoạn mới.

Một là, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động Tuyên Quang ra đời và phát triển muộn hơn so với các địa phương khác, chủ yếu là từ công nhân, lao động ở các nơi khác đến và một phần từ đồng bào các dân tộc ở Tuyên Quang. Đó cũng là kết quả của chính sách khai thác thuộc địa và bóc lột nguồn nhân lực rẻ mạt ở Việt Nam của thực dân Pháp. Từ đây đội ngũ công nhân, viên chức, lao động đã nhanh chóng phát triển, sớm hoà mình vào cuộc đấu tranh chung giành quyền lợi dân tộc, quyền lợi giai cấp, hình thành và phát triển khối liên minh công - nông - trí thức, cũng như khối đại đoàn kết dân tộc ở Tuyên Quang, một tỉnh có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống.

Hai là, phong trào công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn  được hình thành và phát triển liên tục, luôn gắn bó với phong trào chung của đồng bào các dân tộc Tuyên Quang. Từ khi có Đảng lãnh đạo đã trở thành nhân tố quan trọng, góp phần tạo nên những bước phát triển của phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang, trong thời kỳ vận động giành chính quyền.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang là lực lượng quan trọng để xây dựng Thủ đô kháng chiến, bảo vệ an toàn Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng Tuyên Quang thành hậu phương, thành căn cứ địa của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Những năm cả nước tiến hành chống Mỹ cứu nước, xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh  giải phòng miền Nam, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang tiếp tục xây dựng, phát triển kinh tế xã hội, góp phần bảo vệ miền Bắc, chi viện cho cách mạng miền Nam. Cùng với nhân dân các dân tộc trong tỉnh, công nhân, viên chức, lao động đã nêu cao tinh thần "Tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược", "Không có gì quý hơn Độc lập, tự do" vừa sản xuất, công tác; vừa chiến đấu  bảo vệ hậu phương, góp phần cùng với cả nước chiến đấu, chiến thắng giặc Mỹ xâm lược, thực hiện thống nhất nước nhà. Từ sau khi đất nước thống nhất, cả nước cùng tiến lên CNXH, nhất là trong công cuộc đổi mới và bước đầu Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá thì đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn luôn tiên phong, đi đầu, tin tưởng và ủng hộ đường lối của Đảng, góp phần to lớn vào quá trình phát triển của tỉnh nhà.

Sự phát triển liên tục và ngày càng lớn mạnh của phong trào công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn Tuyên Quang gắn liền với công tác dân vận, công vận của Đảng bộ tỉnh, thông qua đó để tổ chức, phát động phong trào quần chúng, đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công.

Ba là, sự phát triển của phong trào công nhân, viên chức, lao động Tuyên Quang gắn với việc chăm lo, xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức, lao động lớn mạnh về số lượng, vững mạnh về chất lượng, nhất là trong công cuộc xây dựng và bảo  vệ Tổ quốc XHCN.

Do những nguyên nhân khách quan, nên đội ngũ công nhân, viên chức, lao động ở Tuyên Quang có những hạn chế về nhận thức chính trị, trình độ học vấn, năng lực tay nghề so với nhiều địa phương khác. Do đó trong các giai đoạn cách mạng của Tuyên Quang nói riêng của cả nước nói chung, nhiệm vụ chăm lo, xây dựng đội ngũ công nhân, lao động thường xuyên được Đảng bộ tỉnh quan tâm. Nhờ vậy mà trải qua các giai đoạn lịch sử của dân tộc và của giai cấp, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động Tuyên Quang vươn lên về mọi mặt, xứng  đáng với vị trí, vai trò và sứ mệnh lịch sử của mình, đáp ứng được yêu cầu cách mạng của quê hương và cả nước.

Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới và Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước đội ngũ công nhân, viên chức, lao động Tuyên Quang có số lượng 37.000 người. Trong đó có 84% là trình độ PTTH; Đại học, Cao đẳng chiếm 34%; thợ bậc 4 trở lên chiếm 42%; Đảng viên 31%; toàn tỉnh có 90 đồng chí trên Đại học và nhiều đồng chí có trình độ cao cấp, cử nhân chính trị. Cùng với sự phát triển kinh tế, văn hoá -  xã hội, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động đang phát triển về mọi mặt. Đặc biệt là xuất hiện công nhân, viên chức, lao động ở các ngành mũi nhọn, khoa học công nghệ cao như điện tử, tin học, thuỷ điện, vật liệu cao cấp...

Sự phát triển của đội ngũ công nhân, viên chức, lao động đặt ra nhiệm vụ quan trọng cho Đảng bộ và tổ chức công đoàn Tuyên Quang là phải thường xuyên chăm lo, xây dựng đội ngũ công nhân, lao động ngày càng vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá.

Bốn là, sự lớn mạnh của phong trào công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang gắn với việc xây dựng tổ chức công đoàn ngày càng vững mạnh, xứng đáng là trung tâm tập hợp, giáo dục, tổ chức các phong trào cách mạng của công nhân, viên chức, lao động; là chỗ dựa vững chắc của Đảng, chính quyền trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu chính trị - kinh tế do Đảng đề ra.

Cùng với sự ra đời của tổ chức Đảng ở Tuyên Quang là sự xuất hiện cơ sở công hội đỏ, nghiệp đoàn ái hữu vào những năm 1930 -1937. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tuyên Quang, tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã lớn mạnh không ngừng, đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của đồng bào các dân tộc trong  tỉnh.

Trong các thời điểm lịch sử quan trọng của quê hương và của cả nước, tổ chức công đoàn Tuyên Quang luôn xứng đáng là chỗ dựa của Đảng của chính quyền. Những thời điểm đó cũng là những bước ngoặt về hoạt động và tổ chức của công đoàn Tuyên Quang. Từ những mầm mống đầu tiên, trải qua các giai đoạn lịch sử của quê hương và của đất nước, ngày nay tổ chức công đoàn Tuyên Quang đã có gần 36.000 đoàn viên và 789 công đoàn cơ sở.

Trải qua các giai đoạn lịch sử, tổ chức công đoàn Tuyên Quang luôn nỗ lực phấn đấu đạt nhiều thành tích, khẳng định được vị trí, vai trò, chức năng của mình, được công nhân, viên chức, lao động tin tưởng, được Đảng, Nhà nước và Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam ghi nhận và tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý. Đến nay toàn tỉnh đã có hàng ngàn cán bộ và đoàn viên công đoàn được trao tặng Huy chương "vì sự nghiệp xây dựng tổ chức công đoàn", hàng trăm cán bộ công đoàn trưởng thành từ phong trào công nhân được bổ sung tăng cường cho các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể.

Năm là, Thành công của phong trào công nhân và hoạt công đoàn Tuyên Quang gắn với việc xây dựng mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ các địa phương khác trong cả nước. Ngay từ khi đội ngũ công nhân, viên chức, lao động Tuyên Quang xuất hiện đã thể hiện mối quan hệ máu thịt anh em với giai cấp công nhân trong cả nước nhất là các tỉnh ở khu vực Bắc Bộ. Đến thời điểm Đảng và tổ chức công đoàn cách mạng Việt nam ra đời thì mối quan hệ của phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang với các địa phương khác đã chuyển hẳn về chất, thể hiện tính thống nhất, đoàn kết rộng lớn do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đây là nhân tố quan trọng để phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang phát triển và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, mục tiêu chính trị do Đảng đặt ra.

Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới, việc tăng cường mối quan hệ, hợp tác và giúp đỡ của phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang với các địa phương khác càng được đẩy mạnh. Đây cũng là nhiệm vụ quan trọng và  tất yếu của đội ngũ  công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang trong giai đoạn mới.

      Từ những đặc điểm của lịch sử phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm là:

- Luôn luôn quán triệt sự lãnh đạo của Đảng, bám sát các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng và vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào việc vận động, tổ chức các phong trào cách mạng của công nhân, viên chức, lao động.

- Nhiệm vụ vận động, tổ chức đội ngũ công nhân, viên chức, lao động phải gắn liền việc vận động và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Từ đó đưa phong trào công nhân, công đoàn thành lực lượng nòng cốt thực hiện thành công nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ đề ra.

- Xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức, lao động vững mạnh là yêu cầu và nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là các cấp uỷ Đảng và hệ thống chính quyền. Đặc biệt phải chú ý xây dựng, phát triển lực lượng công nhân, viên chức, lao động là con em đồng bào dân tộc.

- Trong hoạt động, các cấp công đoàn cần chú ý tới việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động quần chúng; luôn quan tâm chăm lo và bảo vệ quyền , lợi ích hợp pháp của công nhân, viên chức, lao động. Từ đó lôi cuốn họ tự nguyện tham gia tổ chức công đoàn, nâng cao vị trí công đoàn trong cơ chế mới.

Trải qua gần một thế kỷ ra đời và phát triển, đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang luôn xứng đáng với truyền thống cách mạng. Ngày nay trước yêu cầu của sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức công đoàn Tuyên Quang góp phần cùng với đồng bào các dân tộc xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp, theo mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

 

 

 

 

 

 

          

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                

                                                   MỤC LỤC

Trang

Lời giới thiệu

Chương mở đầu: Khái quát điều kiện tự nhiên - xã hội tỉnh 

Tuyên Quang.......................................................................................... 1

Chương II: Phong trào công nhân, công  đoàn Tuyên Quang từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất đến khi cách mạng Tháng tám thành công (1887 - 1945)... 11

I. Quá trình ra đời và những cuộc đấu tranh đầu tiên của đội ngũ công nhân, lao động Tuyên Quang……………………………………………………………….11

1. Các cuộc khai thác thuộc địa và sự ra đời của đội ngũ công nhân, lao động Tuyên Quang................................................................................................................ ..11

2. Ách bức bóc lột của thực dân Pháp và những cuộc đấu tranh của công nhân, lao động Tuyên Quang trước khi Đảng ra đời..................................................................... ...19

II. Phong trào công nhân, lao động Tuyên Quang trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)……………………………………………………………24

1. Sự ra đời và hoạt động của những cơ sở Công hội đầu tiên ở

Tuyên Quang........................................................................................... ..24

2. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong cuộc vận động cách mạng (1939 - 1941)................................................................................................................ ..30

3. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang những năm vận động giành chính quyền (1941 - 1945)........................................................................................... ...36

Chương III: Phong trào công nhân, công đoàn tuyên quang trong kháng chiến chống thực dân pháp (1945 - 1954)........................................................................... ...45

I. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng(9/1945 -12/1946)…………………………………………45

II. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp (1947 - 1950)…………………………………………54

III. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong giai đoạn tổng phản công (1950 - 1954) ……………………………………………………………………70

Chương IV: Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong xây dựng CNXH và đấu tranh thống nhất nước nhà (1954 - 1975)..................................... …...91

I. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế (1945 - 1960).................................................................................... .......91

1. Phong trào công nhân, công đoàn  Tuyên Quang trong khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh (1954 - 1957)............................................................................... …...91 2. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế (1958 - 1960)................................................................................................... ….105

II. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965)................................................................................................... .....122

III. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà (1965 - 1975)............................................................................................................. .....140

1. Công nhân, công đoàn Tuyên Quang  trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ Nhất (1965 - 1968).......................................................................... ….140

2. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong khôi phục, phát triển kinh tế và chống chiến tranh phá hoại lần thứ Hai (1969 - 1975)................................................... ….156

3. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong khôi phục và phát triển kinh tế (1973 - 1975)............................................................................................................. ….168

Chương V: Phong trào công nhân, công đoàn trong xây dựng bảo vệ tổ quốc, thực hiện công cuộc đổi  mới và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước........... ….179

I. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang ( Hà-Tuyên) trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN (1976 - 1985)..................................................... .....179

1. Tình hình tổ chức công đoàn Hà-Tuyên............................................. ….179

2. Công nhân, công đoàn Tuyên Quang ( Hà Tuyên)  trong thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ II (1976 - 1980)........................................................................................ ….179

3. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang (Hà - Tuyên) trong chiến đấu bảo vệ biên giới....................................................................................................... ….201

4. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang (Hà Tuyên) thực hiện kế hoạch 5 năm (1981 - 1985)................................................................................................. ….211

II. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang (Hà Tuyên) trong những năm thực hiện sự nghiệp đổi mới (1986 - 1995)................................................................ .....224

1. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang (Hà Tuyên) trong kế hoạch 5 năm (1986 - 1990)................................................................................................... ….224

2. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang (Hà Tuyên) trong kế hoạch 5 năm (1990 - 1995) ................................................................................................... ….236

III. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong bước đầu Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá........................................................................................ ….245

1. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang trong kế hoạch 5 năm

(1996 - 2000)........................................................................................ ….245

2. Phong trào công nhân, công đoàn Tuyên Quang từ năm 2000 đến nay…...268

Kết luận.............................................................................................. ….285

Mục lục................................................................................................ ….290

 

 

 

[1] Lịch sử phong trào công nhân cao su Việt Nam-NXB Lao Động 2003-Trang17,18

[2] Lịch sử Đảng bộ Tuyên Quang (1940-1975) , NXB Chính trị Quốc gia , HN 2000, Tr 30-31.

[3]  Giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ 1936 – 1939,Cao Văn Biền,NXB khoa học-xã hội,năm 1979,tr 103.

[4] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang , NXB Chính trị Quốc gia , HN 2000 tr 26

[5] Sách đã dẫn , tr 212

[6] Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam , tập 1 , NXB Sự Thật , năm 1984 , tr 98.

[7] Lúc này giá gạo ngon ở Bắc Kỳ khoảng 2,3 đến 2,5 đồng /tạ

[8] Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II làm khoảng 80 triệu người chết , 60 triệu người bị thương tật , 1000 tỷ USD chi phí trực tiếp và 4000 tỷ USD tổn thất ( Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, XBST 1983 , tr 313 )

[9] Văn kiện đại hội Đảng 1930-1945 , BNCLS Đảng TNXB , Hà NộI 1977 , tập III , tr 54-55.

[10] Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam , NXB Sự Thật, Hà NộI 1984 , tập I , tr 328

[11] Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang , NXB Chính trị Quốc gia , Hà Nội 2000 , tr 44

[12] Hồ Chí Minh tuyển tập , XBST , Hà Nội 1980 , tập 1 , tr 352 .

[13]  Lịch sử phong trào công nhân,công đoàn Việt Nam , tập 1 , NXB lao động , năm 2003 , trg 212 - 218

[14]  Như trên

[15] Văn kiện Đảng (1930-1945 ) , BNC LS Đảng TW xuất bản , Hà Nội 1977 , tập 3 , tr 195 .

[16] Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam . NXB Sự Thật , Hà Nội 1984 , trang 408.

[17] Hồ Chí Minh tuyển tập , NXB Sự Thật , HN 1980 , tập 1 , trang 471.

[18] 20 vạn quân Tưởng , 10 vạn quân Nhật có từ trước và lực lượng quân Anh – Pháp thì tổng số quân đội nước ngoài trên đất nước ta lúc này là khoảng 35 vạn tên .

[19] Tư liệu báo Lao Động số 13 ngày 18/10 và số 14 ngày 1/11/1945

[20] Lịch sử Đảng bộ Tuyên Quang , NXB Chính trị Quốc gia , HN 2000, trg 94 .

[21] Chúng ta đã vận chuyển gần 40.000 tấn máy móc , nguyên vật liệu về chiến khu , xây dựng được 100 xưởng sản xuất các loại . Sơ tán 20 vạn nhân dân trong đó có gần 5 vạn công nhân kỹ thuật các ngành xây dựng , ngành quân giới quốc phòng .

[22] Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam . NXB Sự Thật , Hà Nội 1984 , trg 569 .

[23] Lịch sử Đảng bộ Tuyên Quang , NXB Chính trị Quốc gia , Hà Nội 2000 , trg 100.

[24] Hồ Chí Minh toàn tập , NXB Chính trị Quốc gia , Hà Nội 1995 , tập 5 , trg 132 .

[25] Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam , NXB quân đội nhân dân , Hà NộI 1983 , tập 1 , trg 317 .

[26] Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam , NXB quân đội nhân dân , Hà NộI 1983 . tập 1 , trg 571 .

[27] Truyền thống phụ nữ Tuyên Quang , Hội liên hiệp phụ nữ Tuyên Quang , xuất bản 2003 , trg 44 .

[28] Võ Nguyên Giáp , Nhật lệnh - điện từ và thư động viên , NXB Sự Thật , Hà Nội 1980 , trg 59 .

[29] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang , NXB Chính trị Quốc gia , HN 2000 , trg 127 .

[30] Sdd trg 127

[31] Lịch sử Đảng bộ Tuyên Quang , NXB Chính trị Quốc gia , HN 2000 , trang 133.

[32] Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam , NXB Sự thật , trg 612 .

[33] Sách đã dẫn , HN 1983 , trg 638 .

[34] Tham luận công nhân Việt Nam chiến đấu cho độc lập , dân chủ , hoà bình tại Đại hội công đoàn Việt Nam lần I (1950 ) .

[35] Thư của chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội toàn quốc công đoàn Việt Nam lần thứ I (lưu trữ Tổng liên đoàn lao động Việt Nam )

[36] Hồi ký các đồng chí Công đoàn lão thành Tuyên Quang : Trần Văn Tuynh  , Hoàng Minh Quân , lưu trữ Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang .

[37] Báo cáo hoạt động công đoàn Tuyên Quang , lưu tại liên đoàn lao động Tuyên Quang.

[38] Báo cáo hoạt động của Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang , tháng 6/1952 , lưu trữ liên đoàn lao động Tuyên Quang .

[39] Báo Lao Động, số 145 ngày 1/3/1951.

[40] Báo cáo hoạt động công đoàn , liên hiệp công đoàn Tuyên Quang , tháng 11/1952 , lưu trữ công đoàn lao động Tuyên Quang.

[41] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang , NXB Chính trị Quốc gia , Hà NộI 2000 , trg 153.

[42] Lịch sử phong trào công nhân , công đoàn Việt Nam , NXB lao động , HN 2003 , tập 1 , trg 435 .

[43] Báo cáo tóm tắt phong trào công nhân , công đoàn năm 1954 của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam , lưu trữ Tổng liên đoàn lao động Việt Nam .

[44] Truyền thống Cách mạng phụ nữ Tuyên Quang , xuất bản năm 2003 , trg 58 .

[45] Hồi ký đồng chí Vũ Sinh Hùng , nguyên thư ký công đoàn vận tải sông Lô – Tuyên Quang .

[46] Báo cáo chính trị tại đại hội II công đoàn Việt Nam 2/1954.

[47] Hồi ký đồng chí Trần Văn Tuynh , cán bộ lão thành công đoàn Tuyên Quang .

[48]Nghị quyết của Bộ chính trị Đảng lao động Việt Nam 5/9/1954

[49]Nghị quyết của Bộ chính trị Đảng lao động Việt Nam 5/9/1954

[50]Như trên

[51]Lời kêu gọi của Tổng liên đoàn Việt Nam ngày 14/12/1954.

[52] Nghị quyết của Bộ chính trị Đảng lao động Việt Nam tháng 8/1954

[53] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang , sdd , trg 220 – 221 .

[54] Báo cáo công tác công đoàn Tuyên Quang năm 1955 .

[55] Báo cáo tổng kết phong trào công đoàn năm 1956 , Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang .

[56] Báo cáo tổng kết phong trào công đoàn năm 1957 ( Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang )

[57] Báo cáo tổng kết phong trào công đoàn năm 1957 ( Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang )

[58] Báo cáo tổng kết công tác công đoàn năm 1957 ( Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang )

[59] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang , NXB Chính trị Quốc gia , Hà Nội 2000 , trg 234 .

[60] Báo cáo công tác công đoàn năm 1957 của Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang .

[61] Các Đại hội và hội nghị Trung ương , NXB Chính trị Quốc gia , Hà Nội 1995 , trg 64 .

[62] Nghị quyết 17/NQ – TQ ngày 15/2/1958 của tỉnh Tuyên Quang .

[63] Báo cáo tổng kết hoạt động công đoàn 2 năm 1957 , 1958 của liên hiệp công đoàn Tuyên Quang (21/9/1959)

[64] Báo cáo của hội nghị đại biểu Đảng bộ Tuyên Quang tháng 1/1959 (lưu trữ văn phòng trung uơng Đảng)

[65] Lịch sử Đảng bộ Tuyên Quang , NXB chính trị Quốc gia , HN 2000 , trg 244 .

[66] Báo cáo tại đại hội II công đoàn Tuyên Quang ( 11/1959).

[67] Nghị quyết Đại hội Công đoàn tỉnh Tuyên Quang lần thứ III(tháng 11/1959)

[68] Như trên

[69] Báo cáo của Ban chấp hành Công đoàn Tuyên Quang tại Đại hội công đoàn tỉnh lần thức IV (11/1961)

[70] Báo cáo công tác công đoàn năm 1960 của Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang .

[71] Năm 1960 tổ chức Đoàn mạng tên gọi : “Đoàn thanh niên lao động Việt Nam”

[72] Báo cáo công tác công đoàn năm 1960, Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang .

[73] Truyền thống Cách mạng phụ nữ Tuyên Quang , Tuyên Quang năm 2003, trang 78-79.

[74] Báo cáo hoạt động công đoàn tại Đại hội IV công đoàn tỉnh Tuyên Quang ( Tháng 11/1961)

[75] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang, sách đã dẫn , trg 259

[76] Báo cáo chính trị tại Đại hội IV công đoàn Tuyên Quang  (11/1961)

[77] Hồ Chí Minh toàn tập , NXB Chính trị quốc gia , HN 1995 , tập 10 , trg 198.

[78] Lịch sử phong trào công nhân, công đoàn Việt Nam , NXB Lao động , HN 2003 , tập 2 , trg 113-114.

[79] Văn kiện Đại hội III của Đảng , Ban chấp hành Trung ương xuất bản tháng 10/1960 , tậo 1 , trg 187.

[80] Lịch sử Đảng bộ Tuyên Quang , sách đã dẫn , trg 272-278.

[81] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang , sách đã dẫn , trg 272 – 278.

[82] Nghị quyết Đại hội IV công đoàn Tuyên Quang , tháng 4/1961

[83] Báo cáo công tác công đoàn 1961 , Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang .

[84] Báo cáo hoạt động công đoàn Tuyên Quang năm 1961

[85] Lịch sử Đảng bộ Tuyên Quang , sách đã dẫn , trg 306.

[86] Báo cáo công tác công tác năm 1962 , Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang.

[87]Báo cáo hoạt động công đoàn Tuyên Quang 6 tháng cuối năm 1962.

[88] Nghị quyết Liên hiệp công đoàn năm 1963

[89] Báo cáo tại Đại hội công đoàn tỉnh lần thứ V (1964)

[90] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang – sách đã dẫn trg 306

[91] Báo cáo của Ban chấp hành Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang tại đại hội lần thứ V (1964)

[92] Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam , NXB Chính trị Quốc gia , HN 1995 , tập 2 , trg 206

[93] Báo cáo công tác công đoàn tỉnh Tuyên Quang năm 1964

[94] Lịch sử Đảng bộ Tuyên Quang , sách đã dẫn trg 312, 313, 315.

[95] Lịch sử phong trào công nhân, công đoàn Việt Nam, NXB Lao động 2003, tập 2, trg 135.

[96] Số liệu thống kê của chi cục thống kê Tuyên Quang 4/1967

[97] Thống kê của chi cục thống kê Tuyên Quang tháng 4/1967

[98] Lịch sử Đảng bộ Tuyên Quang, sách đã dẫn trg 210.

[99] Nghị quyết lần thứ XI Ban chấp hành Trung ương Đảng, lưu trữ  Văn phòng Trung ương.

[100] Nghị quyết hội nghị lần thứ 13 Ban chấp hành Tổng công đoàn Việt Nam ( háng 2/1965)

[101] Truyền thống Cách mạng phụ nữ Tuyên Quang (Tuyên Quang 2001) trg 97

[102] Nghị quyết Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (tháng 2/1966)

[103] Báo cáo công tác công đoàn Tuyên Quang 1966

[104] Lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 17/7/1966

[105] Truyền thông phụ nữ Tuyên Quang , TQ 2001, trg 100.

[106] Báo cáo công tác công đoàn Tuyên Quang năm 1966

[107] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang, NXB Chính trị Quốc gia, HN 2000, trg 388 – 389 .

[108] Báo cáo hoạt động công đoàn Tuyên Quang năm 1967

[109] Báo cáo công tác công đoàn hai năm 1966 – 1967 của Liên hiệp công đoàn Tuyên Quang .

[110] Lịch sử Việt Nam (1965 – 1975), NXB Khoa học xã hội, HN 2002, trg 257.

[111] Như trên.

[112] Lịch sử Đảng bộ Tuyên Quang, NXB Chính trị Quốc gia, HN 2000, trg 412.

[113] Báo cáo công tác công đoàn Tuyên Quang năm 1970.

[114] Tương đương với 16.293 tấn thóc.

[115] Chỉ thị của Ban bí thư Trung ương Đảng về tổ chức Đại hội công đoàn các cấp (tháng 1/1972)

[116] Lịch sử phong trào công nhân, công đoàn Việt Nam, NXB Lao động, HN 2003, trg 348

[117] Báo cáo số 12/BC – TQ tổng kết công tác năm 1972 của tỉnh uỷ Tuyên Quang.

[118] Báo cáo công tác công đoàn Tuyên Quang 1973

[119] Văn kiện Đại hội công đoàn Việt Nam lần thứ III (tháng 2/1974)

[120] Báo cáo tổng kết hoạt động công đoàn Tuyên Quang (tháng 11/1974)

[121] Lịch sử Đảng bộ Tuyên Quang, sách đã dẫn trg 457, 458, 462.

[122] Lịch sử Đảng bộ Tuyên Quang, sách đã dẫn, trg 474.

[123] Báo cáo công tác Công đoàn Tuyên Quang 6 tháng đầu năm 1975.

142 Công đoàn Hà Tuyên giai đoạn 1976-1980,  Lịch sử phong trào công nhân  công đoàn Hà Giang 1990-1998

143 Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng Đại hội toàn quốc lần thứ IV

147 Văn kiện Đại hội đại biểu Công đoàn tỉnh Tuyên Quang lần thứ XII . Tháng 9 – 1998 trang 34

148 Văn kiện Đại hội đại biểu công đoàn tỉnh Tuyên Quang lần thứ XII. Tháng 8 năm 1998

149 Báo cáo thi đua-biểu dương các điển hình tiên tiến trong CNVCLĐ tỉnh Tuyên Quang lần thứ nhất. Năm 1996-2000. Trang 4

 


In
Về đầu
CÔNG ĐOÀN NGÀNH - Ngày đăng: 19/12/2024
CÁC CÔNG ĐOÀN CẤP TRÊN TRỰC TIẾP CƠ SỞ - Ngày đăng: 19/12/2024
Liên đoàn Lao động huyện Hàm Yên tích cực vận động đoàn viên, CNVCLĐ ủng hộ Quỹ “Mái ấm Công đoàn” - Ngày đăng: 26/09/2024
Liên đoàn Lao động huyện Chiêm Hóa thăm hỏi, động viên, tặng quà đoàn viên, công nhân viên chức lao động bị ảnh hưởng sau cơn bão số 3 - Ngày đăng: 16/09/2024
Liên đoàn Lao động tỉnh Thanh Hóa thăm, hỗ trợ đoàn viên, người lao động tỉnh Tuyên Quang bị thiệt hại do bão lũ - Ngày đăng: 16/09/2024
Công đoàn Viên chức tỉnh và các đoàn thể Khối các cơ quan và doanh nghiệp tỉnh thăm tặng quà các đoàn viên, hội viên, CNVCLĐ là thương binh, bệnh binh, nạn nhân chất độc màu da cam; con liệt sỹ - Ngày đăng: 25/07/2024
Công đoàn cơ sở Kho bạc Nhà nước Hàm Yên tích cực triển khai thực hiện công tác công đoàn. - Ngày đăng: 24/07/2024
Công đoàn cơ sở Sở Nông nghiệp và PTNT trao số tiền vận động ủng hộ từ đoàn viên, CNVCLĐ trong ngành cho đoàn viên có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, mắc bệnh hiểm nghèo - Ngày đăng: 23/04/2024
Uỷ ban Kiểm tra Liên đoàn Lao động tỉnh Khoá XVII, Nhiệm kỳ 2023 - 2028 - Ngày đăng: 12/04/2024
BCH Liên đoàn Lao động tỉnh Khoá XVII, Nhiệm kỳ 2023 - 2028 - Ngày đăng: 12/04/2024

Tổng số: 11 | Trang: 1 trên tổng số 2 trang  

Đang trực tuyến: 16 Lượt truy cập: 1.622.878